TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Tống Văn M, sinh năm 1999 tại Nam Định; nơi cư trú: Xóm 21, xã Giao An, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Văn M và bà Trần Thị H; gia đình có 04 anh em, tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 11 tháng 06 năm 2019 chuyển tạm giam ngày 14 tháng 06 năm 2019; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ, ngày 11/06/2019, Tống Văn M mua 200.000 đồng ma tuý của một người đàn ông không quen biết ở khu vực thành phố Nam Định sau đó khi bộ về khu vực cầu Tân Phong thuộc địa phận xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định thì bị Tổ công tác Công an tỉnh Nam Định kiểm tra và M tự nguyện giao nộp toàn bộ số ma tuý Methamphetamin mua về để sử dụng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tống Văn M không thu giữ gì.
Kết luận giám định số 582/GĐKTHS ngày 12 tháng 6 năm 2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamin. Khối lượng mẫu: 0,259 gam.
Tại phiên tòa, bị cáo Tống Văn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Cáo trạng số 26/CT-VKS-ML ngày 11 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Tống Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên đề nghị:
Tuyên bố bị cáo Tống Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” căn cứ vào theo điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Dó đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Tống Văn M: Lời khai bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản kết luận giám định chất ma túy; lời khai của người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ những chứng cứ trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ, ngày 11/06/2019 tổ công tác Công an tỉnh Nam Định bắt quả tang Tống Văn M đang nắm giữ trái phép 0,259 gam Methamphetamin. Bị cáo đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt các chất ma túy của Nhà nước. Đây là khách thể được pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển và mua bán trái phép. Ma túy hiện nay đang là hiểm họa của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm quy định của pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy bị cáo sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình. Xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo đồng thời bảo đảm tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. BỊ cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[5] Xử lý vật chứng: Số ma túy được thu giữ sau khi được giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận là Methamphetamin áp dụng khoản 2 Điều 106 cần tịch thu và tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo M phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Tống Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Tống Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 06 năm 2019.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Methamphetamin đựng trong phong bì thư có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc.
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Tống Văn M phải nộp 200.000 đồng.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 28/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 28/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về