Bản án 28/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 28/2019/HSST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Mạnh H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 25/3/1954 tại Y; Nơi cư trú: Khu tập thể N, phường O, quận Đ, thành phố N. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 10/10 phổ thông; Con ông: Trần Văn C (Đã chết); Con bà: Vũ Thị M (Đã chết); Vợ: Ngô Thị Tuyết N; Con: Bị cáo có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tháng 6/1978 cướp giật tài sản bị Công an quận Đ, N phạt cảnh cáo, tháng 8/1979 trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân quận B, thành phố N xử phạt 09 tháng tù giam, tháng 10/1980 đánh bạc, bị công an phường Phúc Xá, quận B phạt cảnh cáo, tháng 2/1983 chứa chấp của gian bị Công an phường T, quận B phạt cảnh cáo, tháng 5/1984 chống người thi hành công vụ, bị Công an quận B phạt cảnh cáo, tháng 8/1989 chứa cờ bạc bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ngày 21/9/2003 bị Công an thành phố N bắt và bị Tòa án nhân dân quận H Kiếm xử 45 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 21/12/2006 chấp hành xong hình phạt tù. Bị tạm giữ từ ngày 13/11/2018, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử.(có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 40 phút ngày 12/11/2018, Công an phường M, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 12, phường M, thành phố Đ phát hiện Trần Mạnh H đang đứng ở lòng đường có biểu hiện nghi vấn hoạt động về ma túy, tổ công tác áp sát, khống chế thì H thả từ lòng bàn tay phải 02 gói nhỏ xuống mặt đường, cách chân H khoảng 15 cm, bị cáo H khai đó là ma túy loại Heroine, bị cáo mua mục đích để sử dụng.

H khai nhận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 12/11/2018, bị cáo đi bộ từ nhà nghỉ Ngọc Minh thuộc tổ dân phố 12, phường M, thành phố Đ ra ghi vé số tại quán xổ số lô tô thì gặp một người đàn ông làm nghề lái xe ôm, cao khoảng 1m6, tóc cắt ngắn, khoảng 32 tuổi đi xe Wave màu sơn đỏ đã cũ, (bị cáo có quen nhưng không biết họ tên, địa chỉ và biển kiểm soát của xe máy) đi đến gần hỏi bị cáo có đi mua Heroine không, bị cáo nói có nhưng không mang tiền, người lái xe ôm đó nói cho bị cáo vay 100.000đ và đưa đi mua, khi mua về bị cáo trả cho người xe ôm đó 100.000đ tiền mua heroine và 50.000đ tiền công xe ôm, bị cáo nhất trí, người lái xe ôm đó đưa bị cáo đi xuống bản X, xã T, huyện H mua ma túy, đi đến đầu bản X, người lái xe ôm bảo bị cáo đứng bên ngoài để người đó vào mua ma túy cho bị cáo, khi quay ra, người lái xe ôm đưa cho bị cáo 2 gói heroine được gói ngoài bằng lớp nilon màu hồng, bị cáo cầm hai gói heroine trong lòng bàn tay phải, sau đó người lái xe ôm trở bị cáo về đến gần nhà nghỉ Ngọc Minh thì bị cáo xuống xe đi bộ về nhà nghỉ, khi bị cáo đi bộ đến nhà nghỉ Ngọc Minh thì bị tổ công tác Công an phường M bắt giữ, khi bị bắt bị cáo đã thả hai hói heroine trong lòng bàn tay phải xuống mặt đường cách chỗ bị cáo đứng 15cm.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 13/11/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 71/GĐ-PC09 ngày 20/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,36 gam;

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS-TPĐBP ngày 09/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Trần Mạnh H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Mạnh H từ 18 đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,3 gam heroine (vật chứng H lại sau giám định), 02 mảnh nilon màu hồng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Trần Mạnh H không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 18 giờ ngày 12/11/2018, tại tổ 12, phường M, thành phố Đ, tỉnh H, Trần Mạnh H đã có hành vi cất dấu trái phép 0,36gam heroine trong lòng bàn tay phải, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa H toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 40 phút ngày 12/11/2018, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 13/11/2018, kết luận giám định số 71/GĐ-PC09 ngày 20/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,36 gam.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo H, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Trần Mạnh H phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Từ năm 1979 đến năm 2003, bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt cảnh cáo cũng như phải chấp hành hình phạt tù tại các bản án, các quyết định xử phạt và các bản án này bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh H truy tố bị cáo Trần Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là H toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo Trần Mạnh H là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo tuy buôn bán nhưng thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do người đàn ông lái xe ôm mua hộ tại bản X, xã T, huyện H, nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6].Vật chứng: 0,3 gam Heroine (vật chứng H lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 02 mảnh nilon màu hồng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Trần Mạnh H 02 (hai) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (13/11/2018).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,3 gam Heroine (Vật chứng H lại sau giám định), 02 mảnh nilon màu hồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/4/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh H).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/5/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về