Bản án 28/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tạị Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2019/TLST-HS, ngày 08 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/ QĐXXST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đinh Văn Q, sinh ngày 26/02/1988.

Nơi cư trú: Thôn Đào Đ, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: Thôn D, xã Đông H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Kh (đã chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1964.Trú tại: Thôn Đào Động, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; có vợ Nguyễn Thị Thùy, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Từ tháng 3/2007 đến tháng 5/2012 tham gia nghĩa vụ quân sự. Tại Bản án số 06/HSST ngày 02/4/2009 bị TAQS khu vực 2 Quân khu 3 xử phạt 05 năm tù, về tội “Cướp tài sản”. Ngày 01/5/2012 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/12/2018, đến ngày 30/12/2018 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “có mặt”.

2. Hoàng Thị G, sinh ngày 27/07/1985.

Nơi cư trú: Tổ 5, phường T, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái. Chỗ ở: Thôn D, xã Đ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Minh G (đã chết) và bà Nguyễn Thị S; sinh năm 1952, hiện sinh sống tại tỉnh Yên Bái; có chồng Lê Minh Đức, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và có 01con sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Quá trình sinh sống chưa có vi phạm pháp luật.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/12/2018, đến ngày 30/12/2018 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan liên quan đến vụ án:

- Ông Vũ Duy S, sinh năm 1966. Nơi cư trú tại thôn Dụ Đại 1, xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “vắng mặt”;

- Anh Hoàng Văn Ng, sinh năm 1985. Nơi cư trú tại thôn Vô Thái, xã Dũng Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình “vắng mặt”;

- Hoàng Thị H, sinh năm 1988. Nơi cư trú tại thôn 4, xã Phong Dụ Thượng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái “vắng mặt”;

- Ngân Thị Th, sinh năm 1992. Nơi cư trú tại thôn Bảo Lầm, xã Sơn Lương, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái “vắng mặt”;

- Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991.Nơi cư trú tại thôn An Lộng 1, xã Quỳnh Hoàng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “vắng mặt”;

- Nguyễn Ngọc Ng, sinh năm 1987. Nơi cư trú tại thôn Phương Quả Đông, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “vắng mặt”;

Ng ư ời làm chứng:

- Chị Đinh Thị L, sinh năm 1986. Nơi cư trú tại thôn Bằng, xã Tây Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình “vắng mặt”;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ 45 phút ngày 24/12/2018, Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang tại 02 phòng thuộc tầng 1 và tầng 2 quán tẩm quất ở thôn Dụ Đại 2, xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình do Đinh Văn Q làm chủ và Hoàng Thị G là người quản lý của quán có 02 đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm. Gái bán dâm là chị Hoàng Thị H và chị Ngân Thị Th. Các đối tượng mua dâm là anh Nguyễn Văn Đại và anh Nguyễn Ngọc Nguyên. Vật chứng thu giữ: 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 vỏ bao cao su màu vàng, nhãn hiệu ROMAX do Đại, Nguyên sử dụng để quan hệ tình dục. Quản lý của Hoàng Thị G số tiền 500.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp tại quán tẩm quất của Đinh Văn Q, Cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện quản L: 22 bao cao su nhãn hiệu ROMAX chưa qua sử dụng.

Kết quả điều tra xác định: Đinh Văn Q và anh Hoàng Văn Ng có mối quan hệ quen biết xã hội với nhau. Ngày 16/4/2018, Q và anh Ng cùng đến gặp ông Vũ Duy Sinh đặt vấn đề thuê của ông Sinh 01 ngôi nhà 2 tầng ở mặt đường 396B thuộc thôn Dụ Đại 2, xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ với giá 500.000 đồng/1 tháng để cùng kinh doanh. Hợp đồng thuê ngôi nhà trên do một mình anh Ng đứng tên, không có công chứng, chứng thực. Anh Ng thanh toán cho ông Sinh tiền thuê nhà một năm là 6.000.000 đồng, là tiền riêng của anh Ng. Sau khi thuê nhà, Q và anh Ng có ý định mở quán tẩm quất, massage tại đây. Do anh Ng bận công việc và nhà ở xa nên Q nhận đứng ra làm thủ tục đăng ký kinh doanh quán tẩm quất và tuyển nhân viên. Đến tháng 6/2018, do Q không tìm được nhân viên nữ, không làm được giấy đăng ký kinh doanh nên anh Ng không có ý định kinh doanh chung với Q nữa, mặt bằng và quyền sử dụng ngôi nhà lúc này do Q toàn quyền quản lý sử dụng. Đến đầu tháng 10/2018, do không xin được giấy phép kinh doanh Q vẫn sửa sang ngôi nhà thuê của ông Sinh thành quán tẩm quất, tại phòng tầng 1 được bố trí 04 giường một, được ngăn cách nhau bằng các tấm rèm là nơi tẩm quất, trước cửa quán có đặt biển quảng cáo và tìm thuê nhân viên nữ về làm nhân viên tại quán. Cũng trong khoảng tháng 10/2018, qua mạng xã hội Facebook, Q quen Hoàng Thị G. G đồng ý đến làm nhân viên tẩm quất cho khách tại quán của Q. Ngày 06/11/2018, G đến quán tẩm quất của Q và làm việc, ăn ngủ tại quán cùng với Q. Q và G thỏa thuận khi có khách đến tẩm quất, Q sẽ thu của khách 100.000 đồng/1 người/1 lượt và chia cho G 50.000 đồng, Q được hưởng 50.000 đồng. Thời gian sau Q và G nảy sinh tình cảm, chung sống cùng nhau. Q không muốn G làm nhân viên tẩm quất nên bàn với G tuyển thêm nhân viên nữ và cũng để kiếm thêm thu nhập cho quán. G đồng ý. Do có mối quan hệ từ trước với các chị Đinh Thị L, Hoàng Thị H và Ngân Thị Th nên G rủ L, H, Th về quán của Q làm nhân viên tẩm quất và các chị L, H, Th đồng ý. Trong các ngày 04/12, ngày 10/12 và ngày 17/12/2018 lần lượt L, H, Th đến quán của Q làm nhân viên tẩm quất. Lúc này Q sắp xếp G là người quản lý nhân viên, không phải trực tiếp làm việc và trả lương cho G 4.500.000 đồng/tháng. Nếu trong tháng, quán có đông khách, Q sẽ trả thêm cho G từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Q cũng thỏa thuận miệng với L, H, Th khi có khách đến tẩm quất, Q hoặc G sẽ thu của khách 100.000 đồng/1 người/1 lượt và trả cho nhân viên trực tiếp tẩm quất cho khách hưởng 50.000 đồng, Q được hưởng 50.000 đồng. Số tiền này được thanh toán khi kết thúc ngày làm việc. Q bố trí toàn bộ việc ăn, ở cho L, H, Th tại tầng 2 của quán. Do ít khách, thu nhập kém, Q nảy sinh ý định sẽ bố trí cho các nhân viên L, H, Th bán dâm cho khách tại các phòng tẩm quất và phòng ở của các nhân viên ở tại quán. Khoảng 18 giờ ngày 23/12/2018 khi Q, G, L, H, Th cùng ngồi ăn cơm ở quán, Q đặt vấn đề với G, L, H, Th về việc Q sẽ sắp xếp cho L, H, Th bán dâm ngay tại quán nếu khách đến có nhu cầu mua dâm. G giúp Q quản lý sắp xếp nhân viên, bố trí phòng và thu tiền của khách với giá 250.000 đồng/1 người/1 lượt bán dâm. Số tiền này, Q được hưởng 120.000 đồng, chia cho nhân viên trực tiếp bán dâm 130.000 đồng và G, L, H, Th cùng đồng ý. Thống nhất xong, Q đi mua 24 bao cao su cùng nhãn hiệu ROMAX về để trong túi ni lông treo trên tường ở khu vực lán sân trong quán để làm dụng cụ cho L, H, Th bán dâm. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/12/2018 Nguyễn Văn Đại cùng Nguyễn Ngọc Nguyên đến quán của Q, mục đích đến để mua dâm. Đại hỏi Q và G: Quán có nhân viên không?. G hiểu ý Đại hỏi quán có nhân viên nữ bán dâm không thì bố trí 02 nhân viên nữ để bán dâm cho Đại, Nguyên. G trả lời: . Đại nói: Cho 2 vé tàu nhanh, giá bao nhiêu tiền?. G trả lời: Tàu nhanh 250.000 đồng/1 người/ 1 lượt. Đại đồng ý và đưa cho G một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng là tiền Đại, Nguyên mua dâm đối với 02 nhân viên nữ tại quán của Q. Trong khi G và Đại thỏa thuận giao dịch việc mua bán dâm thì Q có biết và chứng kiến toàn bộ sự việc trên. G nhận tiền và gọi H, Th ở tầng 2 xuống bán dâm. H, Th đi xuống tầng 1, Th lấy 01 bao cao su nhãn hiệu ROMAX cùng Nguyên đi vào phòng (P1) ở tầng 1 và đóng cửa lại; H lấy 01 bao cao su nhãn hiệu ROMAX cùng Đại đi lên tầng 2 vào phòng (P2) của quán, đóng cửa lại để mua bán dâm với nhau. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày khi Nguyên đang quan hệ tình dục với Th tại phòng (P1), Đại đang quan hệ tình dục với H tại phòng (P2), Q và G đang ở khu vực sân lán của quán tẩm quất thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang, thu giữ, quản lý toàn bộ vật chứng.

Bản cáo trạng số 25/CT-VKSQP ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Đinh Văn Q, Hoàng Thị G về tội "Chứa mại dâm" theo quy định khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà:

Trong phần tranh luận, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Đinh Văn Q, Hoàng Thị G như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Đinh Văn Q, Hoàng Thị G phạm tội “Chứa mại dâm”;

Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17 Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Văn Q từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 24 tháng 12 năm 2018;

Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Thị G từ 01(một) năm tù đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 24 tháng 12 năm 2018;

Về hình phạt bổ sung đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với mỗi bị cáo Đinh Văn Q, bị cáo Hoàng Thị G từ 10.000.000đồng đến 20.000.000đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng). Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 vỏ bao cao su màu vàng, nhãn hiệu ROMAX do Đại, Nguyên sử dụng để quan hệ tình dục và 22 bao cao su nhãn hiệu ROMAX chưa qua sử dụng.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Q, G phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của các bị cáo Q, G đều nhất trí với nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của ông Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng các bị cáo Q, G đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp; biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu và biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 15 giờ 50 phút; 18 giờ 10 phút; 18 giờ 20 phút cùng ngày 24/12/2018 tại quán tẩm quất của Đinh Văn Q ở địa chỉ thôn Dụ Đại 2, xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Lời khai của chị Đinh Thị L, chị Hoàng Thị H, chị Ngân Thị Th đều xác nhận: L, H, Th có mối quan hệ quen biết với G từ trước. Vào khoảng đầu tháng 12/2018, G đã liên lạc với L, H, Th đặt vấn đề mời L, H, Th đến quán tẩm quất của Q để làm nhân viên tẩm quất và lần lượt vào các ngày 04/12, ngày 10/12, ngày 17/12/2018. Các chị L, H, Th đã đến quán của Q làm nhân viên tẩm quất cho khách. Khi đến làm việc, L, H, Th biết được Q là chủ quán, G là người quản lý nhân viên. Q thỏa thuận với L, H, Th nếu có khách đến tẩm quất, Q hoặc G sẽ thu của khách 100.000 đồng/1 người/1 lượt và trả cho nhân viên trực tiếp làm 50.000 đồng, Q được hưởng 50.000 đồng. Số tiền này được thanh toán khi kết thúc ngày làm việc. Khoảng 18 giờ ngày 23/12/2018 khi cùng ngồi ăn cơm ở quán, Q nói với G, L, H, Th về việc Q sẽ bố trí cho L, H, Th bán dâm ngay tại quán nếu khách đến có nhu cầu mua dâm. G giúp Q quản lý sắp xếp nhân viên, bố trí phòng và thu tiền của khách với giá 250.000 đồng/1 người/1 lượt bán dâm. Số tiền này, Q được hưởng 120.000 đồng, chia cho nhân viên trực tiếp bán dâm 130.000 đồng. G, L, Th, H cùng đồng ý. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/12/2018, khi L đang đun nước tắm dưới tầng 1, H cùng với Th đang ở trong phòng trên tầng 2 của quán thì được G gọi xuống tiếp khách. Sau đó H, Th xuống tầng 1 thì gặp Q, G và 02 nam thanh niên. H, Th mỗi người lấy 01 chiếc bao cao su để trong túi nilon treo trên bờ tường cạnh phòng tắm tầng 1 sau đó H cùng 01 nam thanh niên lên tầng 2, Th cùng 01 nam thanh niên vào phòng tại tầng 1 của quán và đóng cửa lại để quan hệ tình dục, đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang. Ngoài hành vi bán dâm bị phát hiện bắt giữ nêu trên H, Th và L không thực hiện hành vi bán dâm nào khác tại quán tẩm quất của Q.

Lời khai của các anh Nguyễn Văn Đại, Nguyễn Ngọc Nguyên đều xác nhận nội dung hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án, với lời khai của Đinh Văn Q, Hoàng Thị G và lời khai của Đinh Thị L, Hoàng Thị H, Ngân Thị Th về địa điểm, thời gian, diễn biến hành vi mua dâm bị phát hiện bắt quả tang. Lời khai của anh Hoàng Văn Ng và ông Vũ Duy Sinh,

Nvy có đủ cơ sở kết luận: Khong 15 giờ 45 phút ngày 24/12/2018, tại quán tẩm quất của Đinh Văn Q ở địa chỉ thôn Dụ Đại 2, xã Đông Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Đinh Văn Q và Hoàng Thị G đã có hành vi chứa mại dâm, trong đó Đinh Văn Q là người khởi xướng và sử dụng các phòng thuộc quán tẩm quất của mình, Hoàng Thị G là người giúp sức, trực tiếp đứng ra giao dịch cho 02 nhân viên của quán tẩm quất là Hoàng Thị H và Ngân Thị Th thực hiện hành vi bán dâm, thu số tiền 500 .00 0 đồng, bị công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bắt quả tang. Do đó, hành vi của các bị cáo Đinh Văn Q và Hoàng Thị G đã phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự. Vì vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo Q, G nhằm giáo dục người phạm tội tuân theo pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

Điều 327. Tội chứa mại dâm

1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. ....

3. ....

4. ....

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Q, G đã xâm phạm đến trật tự nơi công cộng và nếp sống lành mạnh văn minh cũng như đạo đức xã hội chủ nghĩa. Hành vi mại dâm tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, huỷ hoại nhân cách con người, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình, cá nhân, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Q, G đều thành khẩn khai báo cho nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Hoàng Thị G có bố đẻ là người có công với cách mạng (ông Hoàng Minh Giống là bố bị cáo G được tặng Th Huy chương kháng chiến hạng Nhất) nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo G có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo Q có nhân thân xấu, thể hiện bị cáo đã từng vi phạm pháp luật theo Bản án số 06/HSST ngày 02/4/2009 bị Tòa án quân sự khu vực 2, quân khu 3 xử phạt 05 năm tù, về tội “Cướp tài sản”.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Q, G không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 327 Bộ luật Hình sự quy định: “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Q, G như đề nghị của ông Kiểm sát viên là hợp L.

[7] Xét về vai trò đồng phạm giữa các bị cáo Q và G thể hiện ở việc cùng thống nhất. Bị cáo Q có vai trò chính là người khởi xướng, bị cáo G có vai trò giúp sức. Do vậy khi quyết định hình phạt cần xem xét đến tính chất của đồng phạm theo Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự.

[8] Đối với ông Vũ Duy Sinh là chủ ngôi nhà ở tại địa chỉ Đinh Văn Q mở quán tẩm quất, qua điều tra xác định: Ông Sinh có biết việc Q mở quán tẩm quất tuy nhiên ông Sinh không biết việc Q sử dụng căn nhà thuê của ông để làm nơi chứa mại dâm. Do đó không có cơ sở để kết luận ông Sinh đồng phạm với Q về hành vi chứa mại dâm.

[9] Đối với anh Hoàng Văn Ng là người đứng tên trong hợp đồng thuê nhà ở tại địa chỉ Đinh Văn Q mở quán tẩm quất, qua điều tra xác định: Anh Ng và Q thuê căn nhà của ông Vũ Duy Sinh mục đích để cùng mở quán tẩm quất. Sau đó do Q không xin được thủ tục pháp L để mở quán tẩm quất nên anh Ng không làm chung với Q nữa, giao lại quyền thuê, sử dụng căn nhà trên cho Q toàn quyền quản L. Đến khoảng tháng 10/2018 Q tự mình mở quán tẩm quất và có thông báo cho anh Ng biết. Anh Ng nói với Q là nếu làm ăn được thì trả lại cho anh Ng khoản tiền thuê nhà đã thanh toán trước cho chủ nhà. Việc Q tuyển nhân viên và sử dụng mặt bằng trên để H, Th bán dâm cho khách anh hoàn toàn không biết do vậy không có căn cứ để kết luận anh Ng đồng phạm với Q về hành vi chứa mại dâm.

[10] Đối với hành vi kinh doanh dịch vụ tẩm quất nhưng không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Đinh Văn Q, Công an huyện Quỳnh Phụ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

[11] Đối với Hoàng Thị H, Ngân Thị Th, Nguyễn Văn Đại, Nguyễn Ngọc Nguyên là những người đã có hành vi mua bán dâm bị bắt quả tang, Công an huyện Quỳnh Phụ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do chị Đinh Thị L chưa thực hiện hành vi bán dâm nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử L là đúng quy định của pháp luật.

[12] Về xử vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 vỏ bao cao su màu vàng, nhãn hiệu ROMAX do Đại, Nguyên sử dụng để quan hệ tình dục và 22 bao cao su nhãn hiệu ROMAX chưa qua sử dụng.

[13] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Q, G phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[14] Những chứng cứ buộc tội của ông Kiểm sát viên và lời trình bày của các bị cáo phù hợp với tranh tụng tại phiên tòa và hợp pháp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Văn Q và Hoàng Thị G phạm tội “Chứa mại dâm”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50, Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Đinh Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 24 tháng 12 năm 2018.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

5. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị G 01 (một) năm 01 (một) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 24 tháng 12 năm 2018.

6. Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Đinh Văn Q 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng). Phạt tiền bị cáo Hoàng Thị G 10.000.000đồng (Mười triệu đồng) để nộp Ngân sách Nhà nước.

7. Về xửvật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 500.000đồng (Năm trăm nghìn đồng)gồm tờ tiền Polime có số seri HF 06824360. Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng, 02 vỏ bao cao su màu vàng, nhãn hiệu ROMAX do Đại, Nguyên sử dụng để quan hệ tình dục và 22 bao cao su nhãn hiệu ROMAX chưa qua sử dụng (Vật chứng trên đang lưu tại Kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) 8. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo Đinh Văn Q, Hoàng Thị G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

9. Các bị cáo Đinh Văn Q, Hoàng Thị G có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18 tháng 4 năm 2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

417
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về