Bản án 28/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 28/2019/HSST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo.

Họ và tên: Lò Văn L, tên gọi khác: Không; sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản K, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt: Trình độ học vấn: 07/12; Đảng phái đoàn thể: Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Quốc tịch; Việt Nam; Con ông: Quàng Văn C (bố đẻ); bố dượng Lò Văn N và bà Tòng Thị N (Tòng Thị N); Bị cáo có vợ là Cà Thị N và có 03 con, con lớn nhất 10 tuổi, con nhỏ nhất 05 tuổi. Tiền án: Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/3/2019 Công an huyện Q làm nhiệm vụ tại bản K, xã C, huyện Q phát hiện bắt quả tang Lò Văn L có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là heroine.

Ngày 25/3/2019 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định. Có khối lượng là 0, 15 gam lấy toàn bộ làm mẫu giám định ký hiệu A1.

- Tại bản kết luận giám định số: 657/ngày 26/3/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu A1 là ma túy, loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,15 gam”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bản thân L là người nghiện chất ma túy (Heroine). Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 22/3/2019 L đi cùng Lò Văn T (T là anh rể L) bằng xe máy ra xã C, huyện Ttìm mua thuốc chữa bệnh cho chị gái L, khi đi qua cầu suối Muội thuộc bản T, xã T L nảy sinh ý định tìm mua ma túy về sử dụng, L bảo T dừng xe để đi vào nhà người quen bàn công chuyện, T dừng xe cho L xuống, còn T đi vào xã C tìm mua thuốc, L sau khi xuống xe liền đi tìm mua ma túy, L gặp và hỏi và mua được với 01 người đàn ông không quen biết 01 gói heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000đ. Mua được ma túy L trích ra một phần sử dụng luôn với hình thức hít, rồi gói số ma túy còn lại cầm ở tay trái đi đến cầu Suối Muội chờ T. Khoảng 10 giờ 30 phút T quay về đón rồi về Q. Khi đi đến chợ bản K, xã C, L xuống xe đi chợ thì bị tổ công tác Công an huyện Q yêu cầu kiểm tra thì phát hiện thu giữ gói ma túy L đang cầm ở tay trái như nêu trên. Việc L cất giấu ma túy trong người, Lò Văn T không biết.

Tại bản cáo trạng số: 32/CT-VKS-QN ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân huyện Q, tỉnh Sơn La đã truy tố Lò Văn L về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Đề nghị Hội đồng xét xử; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Không phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

Tiêu hủy 01 phong bì thư đựng 01 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ,toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa về thời gian, địa điểm và diễn biến sự việc phù hợp với các căn cứ khác: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ. Kết luận giám định “Khối lượng chất ma túy, loại Heroine thu giữ là 0,15 gam”. Tổng trọng lượng chất ma túy là 0,15 gam. Bị cáo khai mục đích mua để sử dụng cho bản thân.

[3] Như vậy: Có đủ căn cứ kết luận: Ngày 22/3/2019 Công an huyện Q bắt quả tang Lò Văn L, sinh năm 1990 đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Bản K, xã C, huyện Q, tỉnh Sơn La về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm chế độ quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, nhưng vì nhu cầu sử dụng của bản thân, bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù. Do vậy; bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, để bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, để răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý nói chung tại địa phương hiện nay.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, là tình tiết giảm trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Qua xác minh, bị cáo hiện nay đang sống vào nghề trồng trọt, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo L khai là mua với 01 người đàn ông không quen biết tại khu vực cầu Suối Muội thuộc bản T, xã T, huyện T vào ngày 22/3/2019 nhưng L không biết họ tên và địa chỉ cụ thể. Nên Cơ quan điều tra Công an huyện Q không có cơ sở điều tra xác minh. Do đó buộc bị cáo Lò Văn L phải chịu trách nhiệm toàn bộ số Heroine 0,15 gam thu giữ nêu trên.

[9] Vật chứng vụ án: Tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên ngoài ghi; vật chứng lưu kho vụ Lò Văn L gồm 01 mảnh nilon màu trắng; 01vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Lò Văn L không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. (Vì gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo có Giấy xác nhận của UBND xã C, huyện Q).

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2019.

Không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.

2/ Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên ngoài ghi; Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn L gồm: 01 mảnh nilon màu trắng; 01vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng số 34/2019 ngày 19/6/2019 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Nhai).

3/ Về án phí: Áp dụng Điều 135 BLTTHS và Điều 21, 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án - Bị cáo Lò Văn L được miễn 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 16/7/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Nhai - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về