Bản án 28/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 01/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 4 năm 2019, tại Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đậu Văn H, sinh ngày 08 tháng 4 năm 1987, tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký thường trú: xã T, huyện T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đậu Văn N và bà Bùi Thị H; Tiền án: Ngày 14/4/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Trộm cắp tài sản”, ngày 24/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với bản án số 29 ngày 14/4/2015 là 24 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 21/01/2018; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 30/11/2018. (Có mặt) 2. Lê Văn P (tên gọi khác: Bầu), sinh ngày 02 tháng 01 năm 1988, tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký thường trú: xã S, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn M và bà Trần Thị H; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 30/11/2018. (Có mặt)

- Bị hại:

Anh Phạm Minh H, sinh năm 1999 (Vắng mặt)

Địa chỉ: xã M, huyện C, tỉnh T;

Chị Phạm Thị B, sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Địa chỉ: xã T, huyện S, tỉnh Q;

Anh Lương Đình C, sinh năm 1979 (Vắng mặt)

Địa chỉ: xã T, huyện S, tỉnh Q

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1958 (Vắng mặt)

Địa chỉ: xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 00 phút ngày 29/11/2018, Đậu Văn H gọi điện rủ Lê Văn P đi tìm kiếm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài, P đồng ý và điều khiển xe Honda Dream mang biển kiểm soát 62M2-1284 chở H đi từ thành phố Biên Hòa đến Quận 9. Đến khoảng 00 giờ 15 phút ngày 30/11/2018, tới công trình đang xây dựng tại đường H, khu phố M, phường L, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, P đứng ngoài cảnh giới, còn H đi bộ vào trong phát hiện anh Phạm Minh H đang ngủ và điện thoại Samsung J5 của anh H đang cắm sạc pin để bên cạnh, H lén lút chiếm đoạt điện thoại bỏ vào túi quần. Sau đó, H tiếp tục đi bộ khỏang 100m đến công trình đang xây dựng tại khu dự án Thịnh Vượng, tại đường H, khu phố M, phường L, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện chị Phạm Thị B đang ngủ trên tấm ván trong công trình, bên cạnh có để 01 điện thoại Mobistar, H lén lút chiếm đoạt. Khi đi ra lán trại kế bên, phát hiện anh Lương Đình C đang ngủ, H chiếm đoạt điện thoại Samsung J7 Prime rồi đi ra ngoài. H giao cho P điện thoại Samsung J5 và điện thoại Mobistar. Sau đó, P điều khiển xe chở H tìm nơi tiêu thụ tài sản trộm được. Khi đi đến đường Song hành Xa Lộ Hà Nội thuộc khu phố 7, phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị tổ tuần tra Công an phường kiểm tra và bắt giữ cùng tang vật giao Công an Quận 9 xử lý.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, Đậu Văn H và Lê Văn P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vt chứng thu giữ:

- 01 điện thoại Mobistar màu vàng, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Samsung J7 Prime màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Samsung J5 màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 xe Honda Dream màu đen, BKS 62M2-1284.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 06-2018/KL-ĐGTS ngày 11/12/2018 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân Quận 9 kết luận: điện thoại Mobistar có giá trị còn lại là 300.000 đồng, điện thoại Samsung J7 Prime có giá trị còn lại 2.400.000 đồng, điện thoại Samsung J5 có giá trị còn lại 2.050.000 đồng. Hiện Cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận 9 trả lại cho bị hại (bút lục 25-27).

Đi với xe Honda Dream màu đen, BKS 62M2-1284, qua xác minh là xe của Lê Văn P mua lại xe cũ làm phương tiện đi lại nhưng không làm thủ tục sang tên, hiện Cơ quan điều tra đang thu giữ (bút lục 24).

Về trách nhiệm dân sự: Hiện các bị hại Phạm Minh H, Phạm Thị B và Lương Đình C đã nhận lại tài sản là điện thoại nên không yêu cầu bồi thường gì khác (bút lục 80-91).

- Cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 04/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Đậu Văn H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Lê Văn P theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Đậu Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (Ba) năm tù. Đối với Lê Văn P 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu, có thái độ ăn năn hối hận và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9, của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 trong quá trình điều tra truy tố là thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo, người bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của Đậu Văn H và Lê Văn P tại phiên tòa phù hợp với nội dung: Biên bản bắt người phạm tội lập ngày 30/11/2018 của Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Kết luận giám định số 06-2018/KL-ĐGTS ngày 11/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Các tang vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Khong 00 giờ 15 phút ngày 30/11/2018 tại công trình đang xây dựng tại đường H, khu phố M, phường L, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, Đậu Văn H và Lê Văn P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt điện thoại Mobistar trị giá 300.000 đồng của chị Phạm Thị Bích, điện thoại Samsung J7 Prime trị giá 2.400.000 đồng của anh Lương Đình C, điện thoại Samsung J5 trị giá 2.050.000 đồng của anh Phạm Minh H. Tổng trị giá tài sản H và P chiếm đoạt là 4.750.000 đồng. hành vi của P đã phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với Đậu Văn H đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này của H thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm bất hợp pháp đến tài sản của người khác, mà còn làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự của xã hội. Tuy nhiên xét các bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại đây là các tình tiết giảm nhẹ theo điềm h, s khoản 1 Điều 51. Trong vụ án này Đậu Văn H là người rủ rê, lôi khéo nên phải chịu mức hình phạt cao hơn. Lê Văn P phạm tội lần đầu nên được áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 là phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo Đậu Văn H và Lê Văn P có phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp thuận.

[5] Đối với vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 đã giao trả điện thoại cho các bị hại Phạm Minh H, Phạm Thị B và Lương Đình C là đúng quy định của pháp luật.

Đi với xe Honda Dream màu đen, BKS 62M2-1284, của Lê Văn P nhưng đây là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung công quỹ nhà nước theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản nên không có yêu cầu nào khác.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1.1. Tuyên bố bị cáo Đậu Văn H; Lê Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.2. Áp dụng điểm i; h; s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt: Lê Văn P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2018.

1.3. Áp dụng điểm h; s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt: Đậu Văn H 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2018.

2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu sung công quỹ nhà nước xe Honda Dream màu đen, BKS 62M2-1284.

(Lệnh nhập kho số 124 ngày 04/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9)

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Đậu Văn H và Lê Văn P mỗi người phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án. Trường hợp vắng mặt tại phiên tòa được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về