Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 18/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 18/8/2019, tại Hội trường, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 71/2019/TLS-HNGĐ ngày 28/3/2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03/7/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Y, sinh năm 1995

Địa chỉ cư trú: Thôn Tây G, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lê Xuân S, sinh năm 1992

Địa chỉ cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 21/3/2019, được bổ sung tại bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn chị Lê Thị Y trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Lê Xuân S kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 46/2014, quyển số 02 ngày 28/8/2014 của UBND xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với bố mẹ anh Sáu tại xã H, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do anh S ham chơi, không chăm lo làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Chị Y nhiều lần khuyên ngăn, thuyết phục nhưng anh S không nghe và còn đánh đập chị. H tại vợ chồng đã sống ly thân, chị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với anh S, yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Sáu.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, cháu đầu là Lê Xuân T, sinh ngày 02/3/2015; cháu thứ hai là Lê Xuân V, sinh ngày 07/12/2017. Nguyện vọng của chị Y được trực tiếp nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh S đóng góp phí tổn nuôi con. Tại phiên tòa, chị Yên trình bày: Con chung Lê Xuân T hiện đang sinh sống cùng anh S, nguyện vọng của chị xin trực tiếp nuôi con Lê Xuân V, sinh ngày 07/12/2017; giao con Lê Xuân T, sinh ngày 02/3/2015 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Y khai không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn Lê Xuân S: Tại bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 17/4/2017, anh S trình bày: Về quá trình kết hôn giống như chị Y trình bày. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hạnh phúc được 4 năm, vợ chồng vẫn sống bình thường, vợ chồng ai cũng có lúc mâu thuẩn nhưng không lâu dài, anh Sáu vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn với chị Y. Tuy nhiên, nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh S xin nuôi con Lê Xuân T và không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Không có. Các lần hòa giải tiếp theo anh Sáu không có mặt; tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 22/7/2019, anh S vắng mặt và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt mặc dù Tòa án đã thông báo, triệu tập hợp lệ, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng anh Lê Xuân S vắng mặt tại phiên toà lần thứ nhất ngày 22/7/2019 và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử đã ra quyết định hoãn phiên toà. Tại phiên toà lần thứ hai, bị đơn anh Lê Xuân S vẫn vắng mặt mặc dù Toà án đã tống đạt quyết định hoãn phiên toà hợp lệ. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Lê Xuân S.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Y và anh Lê Xuân S kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, lẽ ra anh, chị phải biết thương yêu, quý trọng chăm sóc lẫn nhau nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, hai bên thiếu sự thông cảm, chia sẽ trong cuộc sống và thiếu quan tâm lẫn nhau. Chị Y thì cho rằng mâu thuẩn vợ chồng không thể hàn gắn, anh S thì cho rằng mâu thuẩn vợ chồng chưa đến mức độ trầm trọng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi chị Y nộp đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn và nuôi con thì vợ chồng sống ly thân, trong thời gian này anh S cũng không quan tâm đến chị Y, vợ chồng không ai quan tâm đến ai; anh S mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con cái, Tòa án đã tổ chức nhiều phiên hòa giải nhưng anh S chỉ đến tham gia một lần, các lần còn lại anh S vắng mặt chứng tỏ anh không còn quan tâm, bảo vệ hạnh phúc gia đình riêng của mình. Xét mục đích hôn nhân của chị Yên không đạt được, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, Hội đồng xét xử nhất trí cho chị Lê Thị Y được ly hôn anh Lê Xuân S là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Y có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Lê Xuân V, sinh ngày 07/12/2017; giao con Lê Xuân T, sinh ngày 02/3/2015 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Tại Bản tự khai và Biên bản hòa giải ngày 17/4/2019, anh S có nguyện vọng được nuôi con Lê Xuân T và không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu T hiện nay đang sinh sống cùng anh S, cháu V đang do chị Y nuôi dưỡng và cháu V đang còn nhỏ, Hội đồng xét xử nhất trí giao Lê Xuân T, sinh ngày 02/3/2015 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng; giao Lê Xuân V, sinh ngày 07/12/2017 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng và không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con cho ai là phù hợp với ý chí, nguyện vọng của chị Y, anh S và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Y, anh S khai không có nợ chung, không có tài sản chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 51, 56 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Y được ly hôn anh Lê Xuân S.

2/ Về quan hệ con cái: Giao cho anh S nuôi con Lê Xuân T, sinh ngày 02/3/2015; giao cho chị Y nuôi con Lê Xuân V, sinh ngày 07/12/2017 và không ai phải đóng góp phí tổn nuôi con cho ai.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí ly hôn: Buộc chị Lê Thị Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0001997 ngày 28 tháng 3 năm 2019. Chị Yên đã nộp đủ án phí.

Chị Lê Thị Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/8/2019); anh Lê Xuân S vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết tại nơi cư trú và trụ sở Uỷ ban nhân dân xã nơi cư trú để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 18/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về