Bản án 28/2019/HN&GĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 28/2019/HN&GĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 149/2019/TLST- HN&GD, ngày 30 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song giữa các đương sự;

Nguyên đơn: Chị Dương Thị L, sinh năm 1992. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Trần Mạnh T, sinh năm 1990. Vắng mặt.

Cùng trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/7/2019, bản tự khai nguyên đơn chị Dương Thị L trình bày:

Chị Dương Thị L và anh Trần Mạnh T đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 04/4/2012 tại UBND xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Quá trình chung sống chị L và anh T có 01 con chung tên Trần Dương Gia L, sinh ngày 02.03.2013. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã ly thân nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

+ Về con chung: Chị L có nguyện vọng được nuôi con Trần Dương Gia L, sinh ngày 02/03/2012 đến tuổi trưởng thành. Chị Dương Thị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản: Không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án đối với bị đơn. Tuy nhiên bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và phiên Tòa lần thứ nhất. Vì vậy, Tòa án không tiến hành lấy lời khai được với bị đơn, không tiến hành hòa giải được giữa các đương sự với nhau.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự phát biểu:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX, Thư ký: Đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong vụ án: Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành không tốt cụ thể: Không chấp hành giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần 1 và lần 2, phiên tòa lần thức nhất và lần 2 bị đơn đều vắng mặt không có lý do.

Về nội dung vụ án: Cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị L được ly hôn với anh Trần Mạnh T.

Về con chung: Giao con Trần Dương Gia L, sinh ngày 02.03.2013 cho chị Dương Thị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị Dương Thị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản: Các đương sự không không có tài sản chung do đó đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS. Các đương sự đều cư trú tại huyện S. Vì vậy, tranh chấp này thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về chấp hành pháp luật của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ đúng theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng dân sự để thông báo thụ lý vụ án, triệu tập đương sự và các văn bản tố tụng khác cho đương sự. Nguyên đơn chấp hành tốt. Bị đơn bỏ đi khỏi nơi cư trú, Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt nên tại phiên tòa ngày 29/10/2019 HĐXX đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của BLTTDS. Quyết định hoãn phiên tòa có thông báo thời gian mở lại phiên tòa đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc bị đơn không chấp hành pháp luật được coi tự ý từ bỏ quyền được tham gia tố tụng, quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình quy định tại Điều 6, Điều 72 của BLTTDS.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị L và anh Trần Mạnh T kết hôn từ năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện M, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đứng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Xét yêu cầu ly hôn của chị L, năm 2012 chị và anh T kết hôn, tuy nhiên trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã ly thân.

Trong quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình. Tuy nhiên chị L không còn tình cảm đối với anh T, vợ chồng đã sống ly thân, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu ly hôn của chị L là có cơ sở, cần chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Chị L và anh T có 01 con là Trần Dương Gia L, sinh ngày 02.03.2013 hiện nay đang sống với chị L và anh T không chăm sóc con cái nên để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của con HĐXX thấy cần giao con Trần Dương Gia L, sinh ngày 02.03.2013 cho chị L nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Chị Dương Thị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản: Các đương sự không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết.

[5] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và phát biểu quan điểm về đường lối xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 143; Điều 147; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 19; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị L ly hôn anh Trần Mạnh T.

2. Về con chung: Giao con Trần Dương Gia L, sinh ngày 02.03.2013 cho chị Dương Thị L trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị Dương Thị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Mạnh T có quyền thăm nom con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản: Do không có yêu cầu giải quyết nên HDXX không đề cập.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Tiền án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Buộc chị Dương Thị L phải chịu toàn bộ, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh Đắk Nông theo biên lai số 0002222 ngày 30/7/2019.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HN&GĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:28/2019/HN&GĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về