Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 28/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXX-ST ngày 30 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Hoàng Trọng T - Sinh năm 1975.

Địa chỉ: Khu phố 5, phường B, thị xã B1, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1977.

ĐKHKTT: Xóm 10, xã Q, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Hiện đang chấp hành án tại Phân trại số 1, Trại giam số A, Cục B, Bộ Công an, thuộc xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An.

Tại phiên tòa có mặt anh T, chị H đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Hoàng Trọng T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh Hoàng Trọng T và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An vào ngày 25/10/2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2014 thì chị Hà phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 09 năm tù. Hiện nay chị H đang chấp hành án tại Phân trại số 1, Trại giam số A, Cục B, Bộ Công an, thuộc xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An. Thời gian đầu chị H đi chấp hành án anh T cũng có vào thăm chị được vài lần, tuy nhiên từ năm 2016 cho đến nay do bận công việc và tình cảm vợ chồng cũng đã rạn nứt nên anh T không vào thăm, không còn quan tâm đến chị H nữa.

Nay, anh T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H.

- Về con chung: Anh Trinh khai vợ chồng có 01 con chung là cháu Hoàng Trọng Đ, sinh ngày 21/12/2004. Ly hôn anh xin được nuôi dưỡng cháu Đ và không yêu cầu chị H đóng góp nuôi con chung với anh.

Về tài sản, công nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về hôn nhân: chị H có trình bày thống nhất với anh T về thời gian, điều kiện kết hôn của vợ chồng. Từ năm 2015 chị H đi chấp hành án thì anh T không thăm gặp chị. Nay anh T xin ly hôn thì chị có nguyện vọng vợ chồng về đoàn tụ nuôi con, để chị yên tâm cải tạo.

- Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng chị có một con chung như anh T trình bày. Nguyện vọng của chị muốn vợ chồng đoàn tụ nên chị không có yêu cầu gì về con chung.

- Về tài sản, công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: Quá trình anh Hoàng Trọng Tr và chị Nguyễn Thị H sinh sống tại địa phương không xảy ra mâu thuẫn gì. Năm 2014, chị H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ năm 2015 chị H đi chấp hành án thì anh T và con trai không còn ở địa phương nữa. Nay anh T làm đơn khởi kiện ly hôn chị H, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh T và chị H có một con chung là cháu Hoàng Trọng Đ, sinh ngày 21/12/2004.

Về tài sản, công nợ của anh chị: Địa phương không biết nên không cung cấp được thông tin gì cho Tòa án.

Tại phiên tòa, anh T giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: anh đề nghị Tòa án giao cháu Đ cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh; về tài sản công nợ chung: anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bị đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh T, giao cháu Đ cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải đóng góp nuôi con chung với anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hôn nhân: Anh T và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2014 thì chị H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị Tòa án xử phạt 09 năm tù, hiện nay chị đang chấp hành án tại Phân trại số 1, Trại gian số A, Cục B, Bộ Công an. Hai bên đều xác định trong thời gian chị H đi chấp hành án, từ năm 2016 cho đến nay, anh T không thăm gặp và không quan tâm đến chị H, vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai.

Trong khi chị H đang đi chấp hành án là thời gian chị cần nhận được sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của người chồng nhất nhưng anh T đã bỏ mặc chị, không còn thương yêu, chăm sóc chị. Chị H có nguyện vọng vợ chồng quay về đoàn tụ để nuôi con và để chị yên tâm cải tạo nhưng tình cảm vợ chồng của anh T đối với chị không còn, vợ chồng có quay về đoàn tụ thì cũng không hạnh phúc. Hôn nhân giữa anh T và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu của anh T, cho anh được ly hôn chị H.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Anh T và chị H có một con chung là cháu Hoàng Trọng Đ, sinh ngày 21/3/2004. Ly hôn anh T xin được nuôi cháu Đ còn chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung. Việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, chị H hiện nay đang đi chấp hành án, không có thu nhập, không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con hàng ngày. Anh T là kỹ sư xây dựng, có thu nhập ổn định. Kể từ khi chị H đi chấp hành án cho đến nay, cháu Đ vẫn do anh T nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Đ cũng có nguyện vọng xin được ở với bố. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của anh T là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đ, không yêu cầu chị H đóng góp tiền nuôi con chung với anh.

[5]. Về tài sản, công nợ: Anh T, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Anh T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử cho anh Hoàng Trọng T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Anh T và chị H có một con chung là cháu Hoàng Trọng Đ, sinh ngày 21/3/2004, ly hôn giao cháu Đ cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị H không phải đóng góp nuôi con chung với anh T.

Chị H có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: Anh T và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Anh Hoàng Trọng T phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ anh đã nộp theo biên lai sốAA/2017/0006985 ngày 08/4/2019 của chị cục thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (anh T đã nộp đủ án phí).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về