Bản án 28/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 28/2018/HS-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2018/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số

25/2018/QĐXXST – HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Trương Văn T, sinh ngày: 18/6/1997, tại thôn L, xã C, huyện CT, tỉnh TH; Nơi cư trú: Thôn L, xã C, huyện CT, tỉnh TH; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Giới tính: nam; con ông Trương Văn C và bà Hà Thị T; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Từ nhỏ Trương Văn T được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình, làm ăn sinh sống tại địa phương. Ngày 28/5/2018 tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” tại TP Thanh Hóa bị cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội „Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/7/2018 đến ngày 12/7/2018 chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 11/CSĐT ngày 12/7/2018 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Song U - Sinh năm 1997. Trú quán: Thôn X, xã C, huyện CT, tỉnh TH. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Nguyên đơn dân sự: Anh Nguyễn Minh C - Sinh năm 1997. Trú quán: Tổ 6, thị trấn C, huyện CT, tỉnh TH.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14 tháng 5 năm 2018 Phạm Song U, sinh năm 1997 trú tại thôn X, xã C, huyện CT, Thanh Hóa ngồi chờ xe buýt tại thị trấn Q, huyện YĐ, Thanh Hóa thì Trương Văn T, sinh năm 1997 trú tại thôn L, xã C, huyện CT, Thanh Hóa đến bắt chuyện làm quen rồi kết bạn với U. Trên đường đi xe buýt về U rủ T về nhà U chơi. Đi đến thị trấn Vĩnh Lộc cả hai xuống xe, T đi lấy xe máy đang gửi tại đây rồi chở U về nhà U bằng xe máy của T. Quá trình ở chơi nhà U trong hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2018 thì U và T có bàn với nhau sẽ đi xin việc và làm cùng nhau. Sáng ngày 16/5/2018 U sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại Wave alphal BKS 36L1-04512 (xe U mượn của chú mình là ông Phạm Ngọc D, SN 1969 ở cùng thôn) cùng T đi xin việc làm tại thành phố Thanh Hóa. Trên đường đi T nói U không phải xin việc làm nữa mà về T sẽ xin việc cho U để hai người làm cùng nhau, U đồng ý sau đó hai người đi Sầm Sơn chơi đến cuối ngày thì về. Khoảng 21 giờ cùng ngày khi về đến thị trấn Vĩnh Lộc, T rủ U vào nhà nghỉ M ở thôn E, xã V, Vĩnh Lộc ngủ lại với lý do nhà T có xe chở hàng từ miền Nam đang về, sáng hôm sau hàng về đi bốc dỡ hàng cùng với T, U đồng ý. T và U vào nhà nghỉ M thuê phòng, cất đồ rồi đi ăn cơm sau đó đi hát karaoke. Khi đang hát T thấy mình không còn nhiều tiền nên đã nói chuyện với U về việc đi cầm cố điện thoại để có tiền tiêu sài thì U đồng ý cho T sử dụng chiếc điện thoại của U để đi cầm cố.Tvà U đến của hàng điện thoại của anh Phạm Văn P, SN 1982 ở thôn M, xã Y, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa để cầm cố chiếc điện thoại. T đứng ra giao dịch cầm cố chiếc điện thoại của U lấy số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng), T nói với U mai xin tiền mẹ sẽ chuộc lại chiếc điện thoại cho U. Sau đó cả hai tiếp tục đi hát karaoke đến khoảng 23 giờ thì quay về nhà nghỉ M ngủ. Sáng ngày 17/5/2018 T rủ U đi sang huyện T chơi đến khoảng 10 giờ thì quay về nhà nghỉ M rồi cả hai đi ăn cơm sau đó lại đi hát karaoke. Trong lúc hát T đã nảy sinh ý định bán chiếc điện thoại của U đang cầm cố để lấy tiền tiêu sài. T mượn xe của U bảo đi có việc rồi đi thẳng đến quán điện thoại của gia đình anh P giao dịch bán đứt chiếc điện thoại của U lấy thêm 1.000.000đ (một triệu đồng), sau đó T quay lại quán hát cùng U nhưng không nói cho U biết là mình đã bán chiếc diện thoại của U, cả hai tiếp tục hát đến 15 giờ thì quay về nhà nghỉ M. Khi về phòng thấy mình đã hết tiền T tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của U. Lợi dụng lúc U đi tắm, T lục ba lô của U lấy đăng ký xe rồi sau đó nói dối với U là cho T mượn xe để đi lấy tiền về chuộc điện thoại cho U, U đồng ý và đưa chìa khóa xe cho T. Sau khi lấy được xe T đi thẳng lên cửa hàng mua bán xe máy S ở tổ 6, thị trấn C giao dịch với anh Nguyễn Minh C bán chiếc xe với giá 12.000.000đ (mười hai triệu đồng) rồi bỏ trốn và không có liên lạc gì với U nữa.

Sau khi liên lạc với T không được biết mình bị lừa U đi tìm T và chiếc xe ở quanh khu vực thị trấn C thì phát hiện chiếc xe của mình ở của hàng mua bán xe máy S. U báo cáo sự việc đến công an. Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Lộc đã tiến hành thu giữ chiếc xe mô tô HONDA loại Wave alphal BKS 36L1- 04512 tại cửa hàng mua bán xe máy S thuộc tổ 6 thị trấn C để phục vụ cho quá trình điều tra vụ án.

Ngày 25/5/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Lộc đã ra yêu cầu định giá tài sản để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave màu xanh- đen –bạc, BKS 36L1- 04512; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 07/2018/KL- HĐ ĐGTS ngày 31/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Vĩnh Lộc kết luận: 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave màu xanh- đen –bạc có giá trị là 13.000.000đ (mười ba triệu đồng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 có giá trị là 5.000.000đ (năm triệu đồng). Tổng tài sản bị xâm phạm định giá là 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng).

Đối với anh Nguyễn Minh C là chủ cửa hàng mua bán xe máy S, khi mua lại chiếc xe HONDA BKS 36L1- 04512 của Trương Văn T đã không biết chiếc xe là do T lừa đảo chiếm đoạt của người khác mà có nên không đủ cơ sở xử lý. Anh C mua lại chiếc xe HONDA BKS 36L1- 04512 của Trương Văn T với giá 12.000.000đồng, sau đó đã bị cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Lộc thu giữ chiếc xe phục vụ điều tra sau đó trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Về các vật chứng trong vụ án Cơ quan CSĐT đã xử lý như sau:

Đối với 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave anphal màu xanh- đen –bạc, BKS 36L1- 04512 cùng với đăng ký xe mang tên Lê Văn H là tài sản Trương Văn T đã chiếm đoạt của anh Phạm Song U. Cơ quan CSĐT đã trả lại cho anh Phạm Song U.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5, Trương Văn T đã bán cho anh Phạm Văn P là chủ quán điện thoại ở thôn M, xã Y, huyện VL, tỉnh Thanh Hóa, chủ quán điện thoại đã bán lại cho một người khách đi đường không rõ tên tuổi địa chỉ nên không thu hồi lại được.

Về phần trách nhiệm dân sự:

Anh Phạm Song U đã nhận lại chiếc xe HONDA Wave anphal BKS 36L1-04512. Anh U yêu cầu Trương Văn T phải đền bù về chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 T đã chiếm đoạt không thu hồi lại được với giá trị là 5.000.000đ.

Anh C có đơn yêu cầu Trương Văn T phải hoàn trả lại số tiền 12.000.000đ tiền bán xe T đã nhận. Ngày 07/7/2018 trước khi đến cơ quan công an đầu thú T đã chủ động đến trả cho anh C số tiền 5.000.000đ, anh C yêu cầu T phải tiếp tục trả số tiền 7.000.000đ còn lại.

Tại bản cáo trạng số 28/CT- VKSVL ngày 04/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Trương Văn T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 174 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trương Văn T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 điều 174; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 38 BLHS.

Xử phạt Trương Văn T từ 15(mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Phạm Song U số tiền 5.000.000đồng và trả lại cho anh Nguyễn Minh C số tiền 7.000.000đồng.

Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa: Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Vĩnh Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

 [2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với nội dung bản cáo trạng đủ sơ sở kết luận: Vào ngày 17/5/2018 tại nhà nghỉ M thuộc khu vực thôn E, xã V, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bằng thủ đoạn gian dối, Trương Văn T đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt gồm và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 có giá trị là 5.000.000đ (năm triệu đồng) và 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave màu xanh- đen –bạc có giá trị là 13.000.000đ (mười ba triệu đồng) của anh Phạm Song U. Tổng giá trị tài sản mà Trương Văn T đã chiếm đoạt của anh Phạm Song U là 18.000.000đ (Mười tám triệu đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm hình phạt quy định tại khoản 1 điều 174BLHS. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa truy tố Trương Văn T về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Xét tính chất, mức độ hành vi của vụ án:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật vì vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội đồng thời mang tính giáo dục và phòng ngừa chung.

 [4]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo hai lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Phạm Song U, lần thứ nhất: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 có giá trị là 5.000.000đ (năm triệu đồng), lần thứ hai là 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA BKS 36L1- 04512, loại Wave màu xanh- đen –bạc có giá trị là 13.000.000đ (mười ba triệu đồng), do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng „phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

 [5]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo đã khắc phục được một phần hậu quả. Sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú.Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 BLHS để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

 [6] Xét nhân thân bị cáo:

Bị cáo Trương Văn T mặc dù không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu. Bởi lẽ: Ngày 17/5/2018 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại nhà nghỉ M thuộc thôn E, xã V, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Đến ngày 28/5/2018 tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” tại TP Thanh Hóa bị cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội „Trộm cắp tài sản”. Như vậy bị cáo đã thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2018 đến nay được trừ đi thời gian chấp hành hình phạt tù.

 [8] Bị cáo Trương Văn T không có tài sản gì vì vậy miễn phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.

 [9] Về trách nhiệm dân sự: Anh Phạm Song U yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 có giá trị là 5.000.000đ (năm triệu đồng). Anh Nguyễn Minh C yêu cầu bị cáo trả lại số tiền còn lại là 7.000.000đồng mà anh C đã đưa cho bị cáo khi thực hiện giao dịch mua bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave màu xanh- đen –bạc của anh Phạm Song U. Xét thấy yêu cầu của anh Phạm Song U và anh Nguyễn Minh C là có căn cứ nên được chấp nhận.

 [10] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01(một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave anphal BKS 36L1- 04512 cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Lộc đã trả lại cho anh Phạm Song U là phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét.

 [11] Về án phí: Căn cứ vào giấy xác nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo số 72/GXN-HN-HCN ngày 01/01/2018 của UBND xã C, huyện C, tỉnh TH xác định bị cáo thuộc đối tượng là hộ nghèo năm 2018 vì vậy miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Trương Văn T phạm tội: “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt: Trương Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam(07/7/2018).

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự. Điều 127; Điều 132, Điều 584; Điều 589; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc Trương Văn T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Phạm Song U số tiền là 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Buộc Trương Văn T phải trả lại cho anh Nguyễn Minh C số tiền còn lại là 7.000.000đồng( Bảy triệu đồng).

Kể từ ngày có hiệu lực pháp luật, anh Phạm Song u và anh Nguyễn Minh C có đơn yêu cầu thi hành án bị cáo không thi hành đầy đủ thì phải trả lãi với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán với mức lãi suất giới hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS 2015.

- Về án phí: Áp dông khoản 1, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Trương Văn T.

Bị cáo, Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Nguyên đơn dân sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

379
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:28/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về