Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 20/07/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 28/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2017 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 75/2017/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2017 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2017/QĐST-DS ngày 12 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đào Ngọc T (tên gọi khác M), sinh năm 1981 (có mặt).

Địa chỉ: Số nhà 222/20, đường T, khóm M, phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Ông Lâm Văn T, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 4 năm 2017 và trong quá trình xét xử nguyên đơn bà Đào Ngọc T trình bày:

Bà Đào Thị Ngọc T và ông Lâm Văn T tự nguyện tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 201 ngày 15/12/2007. Thời gian đầu bà T và ông T chung sống hạnh phúc đến khi bà T sinh cháu Lâm Ngọc T thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T muốn bà T sinh thêm con trai, bà T thì bị bệnh, không sinh thêm con được, ông T thường xuyên đi nhậu và khi nhậu về ông T đuổi bà T đi nhiều lần nên bà T bỏ về nhà cha, mẹ ruột bà T ở từ tháng 7 năm 2016 âm lịch cho đến nay.

Về con chung: Bà T và ông T có một người con chung tên Lâm Ngọc T, sinh ngày 21/11/2008, hiện nay cháu T đang chung sống với bà T.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà Đào Ngọc T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Bà T yêu cầu được ly hôn với ông Lâm Văn T.

- Về con chung: Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lâm Ngọc T, sinh ngày 21/11/2008 đến khi cháu T tròn 18 tuổi, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý vụ án số 75/TB-TLVA ngày 19 tháng 5 năm 2017, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Lâm Văn T, nhưng ông T không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ 02 lần đối với ông T để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do, nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được lưu hồ sơ và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn chưa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án, xét thấy nguyên đơn, bị đơn thường xuyên mâu thuẫn với nhau do bất đồng ý kiến, không còn sống chung với nhau thời gian dài, không hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn; về con chung giao cháu Lâm Ngọc T, sinh ngày 21/11/2008 cho nguyên đơn nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi, nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét. Về án phí nguyên đơn có đơn yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn. Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên t a và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn ông Lâm Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Lâm Văn T.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đào Ngọc T, sinh năm 1981 và ông Lâm Văn T, sinh năm 1980 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường N, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 201, ngày 15/12/2007 nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T là hợp pháp.

 [3] Xét lý do xin ly hôn của bà T, Hội đồng xét xử thấy rằng sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng bà T, ông T hạnh phúc được một thời gian, đến tháng 11 năm 2008 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, ông T thường xuyên đi nhậu và khi đi nhậu về ông T đuổi bà T đi nhiều lần nên bà T bỏ về nhà cha, mẹ ruột của bà T ở từ tháng 7 năm 2016 cho đến nay làm cho tình trạng hôn nhân của vợ, chồng bà T và ông T trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

 [4] Về con chung: Tại phiên toà sơ thẩm, bà T yêu cầu được nuôi con chung là cháu Lâm Ngọc T, sinh ngày 21/11/2008 đến khi cháu T tròn 18 tuổi. Xét yêu cầu được nuôi con chung của bà T, từ khi cháu T sinh ra, lớn lên cho đến nay đều do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, hiện nay cháu T đang sống chung với bà T, tại văn bản ghi ý kiến ngày 14/6/2017 của cháu Lâm Ngọc T thể hiện nguyện vọng của cháu muốn được sống chung với mẹ là bà Đào Ngọc T và cũng để cho cháu T ổn định cuộc sống nên Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận giao cháu Lâm Ngọc T cho bà T nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi là phù hợp.

 [5] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét.

 [6] Căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà T.

 [7] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

 [8] Xét đề nghị của kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [9] Về án phí: Bà Đào Ngọc T là người có đơn xin ly hôn nên căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đào Ngọc T và ông Lâm Văn T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Lâm Ngọc T, sinh ngày 21/11/2008 cho bà Đào Ngọc T nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi. Ông Lâm Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Ông T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của bà T.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

5. Về án phí: Bà Đào Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2015/ 0003689 ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng và như vậy bà Đào Ngọc T đã nộp xong án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 20/07/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:28/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về