Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 12/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 28/2017/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 94/2017/TLST - HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2017 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2017/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2017/QĐST-HPT ngày 23 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn B, sinh năm 1985, Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: tỉnh Hưng Yên (có mặt).

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Mai P, sinh năm 1983, Đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh Phạm Văn B và chị Nguyễn Mai P có tự nguyện tìm hiểu và đăng ký vào ngày 31 tháng 3 năm 2011 tại UBND phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sau khi cưới vợ chồng về sinh sống tại 74 phố Phó Đức Chính, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đây là nhà của bố mẹ chị P, trong quá trình chung sống thì xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, sống không hợp nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc. Khi mâu thuẫn hai bên gia đình nội ngoại đã khuyên giải nhưng không có kết quả. Đến tháng 4 năm 2014 mâu thuẫn căng thẳng anh chị đã sống ly thân. Nay anh B thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị P.

- Về con chung: Không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-  Về tài sản chung và nhà ở: Anh B xác nhận không có, nên yêu cầu Tòa án giải quyết.

-  Về khoản nợ: Anh B xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và không ai vay nợ.

Tòa án đã tiến tống đạt các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về việc triệu tập lấy lời khai và tham gia phiên hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn, tuy nhiên bị đơn vẫn vắng mặt, do đó Tòa án không tiến hành ghi lời khai của bị đơn và không tiến hành hòa giải cho nguyên đơn và bị đơn được.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo luật định.

* Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm như sau:

+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định Điều 48; Điều 198; khoản 2, 3 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

+ Thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng Điều 28, 39, 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

+ Chuyển thông báo thụ lý vụ án, các quyết định đến Viện kiểm sát và các tống đạt cho đương sự theo đúng quy định từ Điều 170 đến Điều 175; Điều 191; Điều 195; Điều 196; Điều 199 và khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

+ Thực hiện nguyên tắc hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo khoản 1 Điều 205; khoản 2 Điều 207; khoản 2 Điều 208; Điều 209; Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội nước CHXHCNVN.

+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian chuẩn bị xét xử đã được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định tại Điều 220; điểm a khoản 1, khoản 4 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

+ Hội đồng xét xử chấp hành đúng theo các nguyên tắc cơ bản về xét xử và thành phần Hội đồng xét xử đúng theo qui định tại Điều 63; Điều 227 và chương II Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

+ Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 51; Điều 237 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

 + Đối với đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay đương sự đã được thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 2 Điều 4; khoản 1 Điều 28; khoản 2 Điều 42; Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 39 Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu xin ly hôn. Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để tuyên nguyên đơn chịu án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phạm Văn B và chị Nguyễn Mai P có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vì vậy, Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung: Xét quan hệ hôn nhân giữa Anh Phạm Văn B và chị Nguyễn Mai P là quan hệ hôn nhân hợp pháp có đăng ký kết hôn vào ngày 31 tháng 03 năm 2011 tại UBND phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Trong thời gian chung sống vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, sống không hợp nhau, cuộc sống chung không hạnh phúc. Những mâu thuẫn của vợ chồng, gia đình anh B có biết có khuyên giải cho vợ chồng nhưng không có kết quả gì. Khi mâu thuẫn căng thẳng vợ chồng đã sống ly thân. Nay anh B xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị P.

Tòa án đã tiến hành ghi ý kiến gia đình của anh Phạm Văn B là bà Nguyễn Thị D là mẹ đẻ của anh B cho biết: Cháu B và cháu P kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký vào ngày 31 tháng 3 năm 2011 tại UBND phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Trong quá trình hai cháu chung sống có nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, sống không hợp nhau, sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Khi xảy ra mâu thuẫn gia đình chúng tôi có biết mâu thuẫn của hai cháu và đã giảng hòa nhưng không có kết quả. Nay cháu B xin ly hôn cháu P, các cháu đều đã trưởng thành gia đình chúng tôi không can thiệp và đề nghị Tòa án giải quyết cho hai cháu ly hôn theo quy định của pháp luật. Về con chung: Vợ chồng cháu không có con chung. Về tài sản chung và nhà ở, các khoản nợ: Gia đình chúng tôi không cho cháu B và cháu P vay nợ, gia đình cũng không vay nợ hai cháu.
 
Ngày 28/4/2017 chị P có làm bản tự khai với nội dung: Chị và anh B kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 31/3/2011 tại UBND phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn tuy nhiên chỉ là những mâu thuẫn nhỏ. Nay anh B xin ly hôn chị không đồng ý vì lý do, chị muốn anh B và gia đình anh B lên nói chuyện với gia đình chị. Vì khi kết hôn có gia đình hai bên chứng kiến và được tổ chức theo phong tục truyền thống. Về con chung: Vợ chồng chị không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản và nhà ở: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về khoản nợ: vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ.

Hội đồng xét xử xét thấy: Anh B và chị P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, trong quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả. Tòa án cũng đã nhiều lần tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị P đều vắng mặt không lý do, chị không đến phiên tòa thể hiện chị từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình. Thể hiện tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ là không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 xử cho anh B được ly hôn chị P là phù hợp.

Về con chung: Không có nên Tòa án không xem xét.

Về tài sản chung và nhà ở: Anh B, chị P xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết có nên Tòa án không xem xét. Về khoản nợ: Anh B, chị P xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Anh B, chị P có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các căn cứ và nhận định trên;
 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng các Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39; Điều 70; khoản 4 Điều 147; các Điều 203; 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 24; khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của anh Phạm Văn B; Anh Phạm Văn B được ly hôn với chị Nguyễn Mai P.
 
2. Về con chung: Không có nên Tòa án không xem xét.

3. Về tài sản chung và nhà ở: Anh B, chị P xác nhận không có tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

Về khoản nợ: Anh B, chị P xác nhận vợ chồng không vay nợ nhau, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ.

4. Về án phí sơ thẩm: Anh Phạm Văn B phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 8900 ngày 28 tháng 02 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, anh Phạm Văn B có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 12 tháng 7 năm 2017. Chị Nguyễn Mai P vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2017/HNGĐ-ST ngày 12/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:28/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về