Bản án 277/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 277/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 6 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 184/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 291/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T - tên gọi khác: Không; Sinh năm 1990 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ X, phường Q, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, đoàn thể, chính quyền): Không; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và con bà Phạm Thị L, sinh năm 1958; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 08/11/2018 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2. Nguyễn Thế T1 - tên gọi khác: Không; Sinh năm 1993 tại TH; Nơi ĐKNKTT: Tổ Y, phường Đ, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, đoàn thể, chính quyền): Không; Con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1947 và con bà Đặng Thị T2, sinh năm 1963; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 08/11/2018 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

3. Hoàng Quỳnh A - tên gọi khác: Không; Sinh năm 1998 tại TH; Nơi ĐKNKTT: Tổ Z, phường T, thành phố TH, tỉnh TH; Chỗ ở: Tổ N, phường P, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, đoàn thể, chính quyền): Không; Con ông Hoàng Văn S (đã chết) và con bà Nguyễn Ninh C, sinh năm 1977; Bị cáo chưa có chồng, có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang tại ngoại tại nơi cư trú (trước đó không bị tạm giữ, tạm giam). (Có mặt tại phiên tòa)

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T: Bà NguyễnThị Thanh N – Luật sư – Văn phòng luật sư Thanh N thuộc Đoàn luật sư tỉnh TH (Có mặt)

- Người chứng kiến:

1. Ông Nông Phúc L1 - sinh năm 1957, trú tại: Tổ X, phường Đ, thành phố TH, tỉnh TH

2. Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1941 – trú tại: Tổ T, phường P, thành phố TH

3. Chị Nguyễn Thu T2, sinh năm 1996 – trú tại: tổ M, phường T, thành phố TH.

4. Anh Nguyễn Hồng S1, sinh năm 1992 – trú tại: Đội 1, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh TH.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 08/11/2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TH tiến hành tuần tra làm nhiệm vụ tại khu vực tổ X, phường Đ, thành phố TH phát hiện có một nam thanh niên biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, nam thanh niên khai tên Nguyễn Thế T1. Và T1 tự lấy từ túi quần phía trước bên phải T1 đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng. T1 khai đó là ma túy đá và hồng phiến của T1 và Hoàng Quỳnh A (là người chung sống như vợ chồng với T1) mang đi bán kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen.

Hi 12 giờ 45 phút ngày 08/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A tại tổ N, phường P, thành phố TH phát hiện và thu giữ: 01 cân điện tử màu đen, nhãn hiệu POCKET SCALE 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 04 viên nén màu hồng trên mặt bàn phòng khách. 03 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 99 viên nén (trong đó có 97 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh) trên mặt bàn phòng khách Cùng ngày, tiến hành cân xác định:

- Số chất tinh thể màu trắng có trong 01 túi nilon màu trắng thu giữ khi bắt quả tang đối với T1 có khối lượng 0,432 gam.

- 01 viên nén màu hồng thu giữ khi bắt quả tang có khối lượng 0,103 gam.

- 04 viên nén màu hồng có trong túi nilon màu trắng có khối lượng 0,402 gam - 99 viên nén có trong 03 túi nilon màu trắng trong đó có 97 viên nén màu hồng có khối lượng 9,649 gam và 02 viên nén màu xanh có khối lượng 0,19 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 1203 và số 1205/KL-PC09 ngày 15/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận:

* Chất tinh thể màu trắng trong mẫu T1 ghi thu giữ của Nguyễn Thế T1 là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lương 0,432 gam và viên nén màu hồng trong mẫu T2 ghi thu giữ của Nguyễn Thế T1 là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,103 gam.

* Viên nén màu hồng trong mẫu B ghi thu giữ của Hoàng Quỳnh A là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,402 gam.

Viên nén màu hồng mẫu B1 ghi thu giữ của Hoàng Quỳnh A là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 9,649 gam.

Viên nén màu xanh trong mẫu B2 ghi thu giữ của Hoàng Quỳnh A là chất ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,19 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A khai nhận: Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A đã mua ma túy đá và hồng phiến của Nguyễn Thanh T nhiều lần. Lần gần đây nhất cụ thể: Vào khoảng 02 -03 giờ và chiều tối ngày 02/11/2018, mua của T mỗi lần 50 viên hồng phiến. Đến khoảng 03 giờ ngày 03/11/2018 và khoảng 05 giờ ngày 06//11/2018 T1 và Quỳnh A mua mỗi lần 50 viên hồng phiến. Khoảng 04 đến 05 giờ ngày 08/11/2018 có mua thêm của T 50 viên hồng phiến và 05 gam ma túy đá với sô tiền khoảng 6.000.000đ. Địa điểm mua bán ma túy đều diễn ra tại chỗ ở của T1 và Quỳnh A ở tổ N, phường P, thành phố TH. Sau khi mua ma túy của T, ngoài việc sử dụng cho bản thân thì T1 và Quỳnh A còn có mục đích bán kiếm lời. Số hồng phiến cơ quan điều tra thu giữ là do các lần mua của T chưa bán hết. Khoảng 11 giờ ngày 08/11/2018 khi T1 đang ở nhà cùng Quỳnh A và T thì có khách gọi điện hỏi mua ma túy với giá 400.000đ. T1 đồng ý bán và cầm 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy đá và 01 viên nén màu hồng đến nhà nghỉ Mr Bean thuộc tổ K, phường Đ, thành phố TH để bán, nhưng chưa kịp bán thì bị Công an thành phố TH phát hiện bắt giữ và thu giữ vật chứng.

Đi với Nguyễn Thanh T, ban đầu T khai nhận vào khoảng 02 – 03 giờ và chiều tối ngày 02/11/2018 có bán ma túy cho Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A mỗi lẫn 50 viên hồng phiến với giá 60.000đ/viên. Đến khoảng 03 giờ ngày 03/11/2018 T tiếp tục bán cho T1 và Quỳnh A 50 viên hồng phiến với giá như trên. Ngoài ra ngày 06/11/2018 và ngày 08/11/2018 có bán ma túy đá cho T1 và Quỳnh A . Tuy nhiên sau đó T đã thay đổi lời khai trên, không thừa nhận việc đã bán ma túy cho T1 và Quỳnh A.

Lời khai của Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A phù hợp với nhau về thời gian địa điểm, số ma túy mua bán và phù hợp với lời khai ban đầu của Nguyễn Thanh T và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ.

Vật chứng của vụ án:

- 04 bì niêm phong ký hiệu T1, B, B1, B2; 01 cân điện tử màu đen, nhãn hiệu POCKET SCALE và 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone, vỏ màu đen, số Imei: 33535408275518.

Bản Cáo trạng số 178/CT-VKSTPTN ngày 27 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án: Ngày gần đây nhất là vào các ngày 02/11/2018, 03/11/2018, 06/11/2018 và ngày 08/11/2018, Nguyễn Thanh T đã trực tiếp bán cho Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A ma túy đá và hồng phiến để T1 và Quỳnh A sử dụng đồng thời mang bán để kiếm lời.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm b, c, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Thanh T từ 10 năm đến 10 năm 6 tháng tù. Phạt bổ sung từ 3 đến 5 triệu đồng.

* Áp dụng điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Nguyễn Thế T1 từ 09 năm đến 09 năm 6 tháng tù. Phạt bổ sung từ 3 đến 5 triệu đồng Xử phạt Hoàng Quỳnh A từ 08 năm đến 08 năm 6 tháng tù giam. Phạt bổ sung từ 3 đến 5 triệu đồng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu tiêu hủy 04 bì niêm phong ký hiệu T1, B, B1, B2 và 01 cân điện tử màu đen, nhãn hiệu POCKET SCALE Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vở màu đen, số ImeI 35535408275518 đã qua sử dụng của Nguyễn Thế T1.

* Luật sư trình bày ý kiến: Hành vi của các bị cáo đã rõ, bị cáo T thừa nhận từ ngày 02/11/2018 đến ngày 08/11/2018 có bán ma túy cho T1 và Quỳnh A tổng số là 04 lần. Việc áp dụng pháp luật hoàn toàn nhất trí. Tuy nhiên mức án đề nghị là vô cùng nghiêm khắc, tại phiên tòa T khai báo rất thành khẩn, số ma túy T bán cho T1 và Quỳnh A chỉ trên mức khởi điểm đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức hình phạt ở mức khởi điểm của khung hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh kinh tế của các bi cáo khó khăn nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung .

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, luật sư không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong, biên bản mở niêm phong cân khối lượng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Khong 12 giờ ngày 08/11/2018, tại tổ 3, phường Đ, thành phố TH, tỉnh TH tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TH phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thế T1 có hành vi tàng trữ 0,535 gam Methamphetamine để bán. Cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T1, thu giữ 10,241 gam Methamphetamine. Tổng số ma Ty Nguyễn Thế T1 tàng trữ để bán là 10,776 gam Methamphetamine. Quá trình điều tra xác định số ma túy trên là của Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A mua nhiều lần của Nguyễn Thanh T, số lần cụ thể:

- Vào khoảng 02 – 03 giờ và chiều tối ngày 02/3/2018 tại nhà của T1 và Quỳnh A ở tổ 5, phường P, thành phố TH, T1 và Quỳnh A mua của T mỗi lần 50 viên hồng phiến.

- Khoảng 03 giờ ngày 03/11/2018 và khoảng 05 giờ ngày 06/11/2018 tại địa điểm trên T tiếp tục bán cho T1 và Quỳnh A mỗi lần 50 viên hồng phiến.

- Đến ngày 08/11/2018 vào khoảng 04 -05 giờ T đến nhà T1 và Quỳnh A tiếp tục bán cho T1 và Quỳnh A 50 viên hồng phiến và 05 gam ma Ty đá. Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A mua số ma túy trên mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Nguyễn Thanh T xác định toàn bộ số ma túy và thời gian số lần mua bán ma túy với Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A nêu trên là đúng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Thanh T đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Hành vi của Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Ni dung Điều 251 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a, ...

b, Phạm tội 02 lần trở lên c, Đối với 02 người trở lên ...

i, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi tệ nạn ma túy đang là hiểm họa của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Hậu quả do ma túy gây ra không chỉ làm suy kiệt kinh tế và sức lao động mà nó còn có thể làm hạn chế hoặc mất đi khả năng điều khiển hành vi của con người, khiến cho nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh khánh kiệt, bần cùng. Hành vi của các bị cáo còn xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo với mức án nghiêm khắc phù hợp với hành vi các bị cáo gây ra, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

Vụ án có tính chất đồng phạm song không có sự bàn bạc, phân công từ trước. Do đó các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do các bị cáo gây ra.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự.Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo T1, Quỳnh A thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, đối với bị cáo T quá trình điều tra bị cáo chưa thành khẩn khai báo song tại phiên tòa bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình nên đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51BLHS. Bị cáo Nguyễn Thế T1 có bố đẻ, mẹ đẻ là thương binh, bố đẻ được tặng thưởng Huân chương, bị cáo Hoàng Quỳnh A phạm tội trong thời gian đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, cần xem xét cho bị cáo T1, bị cáo Quỳnh A được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo khai mục đích mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời. Hội đồng xét xử xem xét cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo. Đối với bị cáo Hoàng Quỳnh A hiện đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, cần áp dụng khoản 3 Điều 35 BLHS xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

- 04 bì niêm phong ký hiệu T1, B, B1, B2 bên trong có chứa ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 01 cân điện tử các bị cáo khai dùng vào việc bán ma túy, nay không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vở màu đen, số ImeI 35535408275518 đã qua sử dụng của Nguyễn Thế T1 xác định liên quan đến vụ án. Cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A phạm tội"Mua bán trái phép chất ma tuý"

1. Về hình phạt:

1.1. Áp dụng: điểm b, c, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/11/2018. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

1.2. Áp dụng: điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế T1 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/11/2018. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo NguyễnThanh T, Nguyễn Thế T1 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

1.3. Áp dụng: điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; khoản 3 Điều 35; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Quỳnh A 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án. Phạt bổ sung bị cáo 3.000.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy: 04(Bốn) bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T, B, B1, B2(bên trong có chứa ma Ty); 01 cân điện tử màu đen.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu đen, số Imei: 35535408275518.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 243 ngày 05/4/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thế T1 và Hoàng Quỳnh A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:277/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về