Bản án 277/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 277/2019/HS-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 200/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 231/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

1. Nguyễn Thiện N, sinh năm 1984 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 3, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thiện N, đã chết và bà Trần Thị L, sinh năm 1944; có 07 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm: Không rõ, nhỏ nhất sinh năm: Không rõ; có vợ tên Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 và có 02 người con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2008; tiền án: Ngày 27/01/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/9/2017, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 03/01/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn D, sinh năm 1985 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 9, xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1955; có 03 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1990; có vợ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1990 và 03, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 03/01/2019 đến ngày 28/01/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ ánDương Hoàng D, sinh năm 1978; thường trú: Phường 5, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; vắng mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Thanh D, sinh năm 1977; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 03/01/2019, N đi đến bến xe Lam Hồng thuộc phường An Bình, thị xã Dĩ An thì nhận được điện thoại của D nhờ đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng. N đi xe bus đến khu vực ngã tư An Sương thuộc quận 12, thành phố Hồ Chí Minh mua 03 gói ma túy (Hêrôin) giá 1.000.000 đồng và 01 gói ma túy đá giá 300.000 đồng của 01 người (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi mua được ma túy, N đón xe bus đi đến khu vực bến xe Lam Hồng. Đến khoảng 15 giờ ngày, D điều khiển xe mô tô biển số 94K1-250.95 đến bến xe Lam Hồng chở N đến bãi xe container ở khu phố Bình Đường 1, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây, N lấy một tấm ván bỏ vào bên trong một container rồi cả hai vào bên trong sử dụng ma túy. Trước khi sử dụng N đưa cho D 02 gói ma túy (trong đó một gói là ma túy đá và một gói Heroin), D nhận ma túy từ N và để xuống tấm ván chỗ D đang ngồi. N lấy gói Heroin còn lại ra sử dụng một ít, số còn lại gói lại cất giữ vào trong 02 gói và cất trong nón đội lên đầu. Phần ma túy lấy từ trong gói ma túy đi mua về ra sử dụng 01 ít, còn lại một ít N gói giấy để bên ngoài tên tấm ván. Khi N và D sử dụng ma túy xong thì có Hoàng Đình Q đi đến và có mang theo ma túy đá để sử dụng cùng D và N. Khi cả 03 người đang sử dụng ma túy, Công an phường An Bình đến kiểm tra bắt quả tang N đang tàng trữ 02 ma túy trong nón đội trên đầu. Công an tiếp tục kiểm tra chỗ ngồi của Nguyễn Văn D thu 02 gói ma túy và còn một ít ma túy N bỏ ra để sử dụng nhưng chưa sử dụng hết. Công an phường An Bình đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ vật.

Căn cứ kết luận giám định số 90/MT-PC09 ngày 09/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu chất màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,8128 gam (M1-1); 0,0667 gam (M1-2); 0,0766 gam (M2); 0,2826 gam (M3-2) loại Heroin; mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3592 gam (M3-1) loại Methamphetamine.

Điện thoại di động GALAXY A6 màu đen có sim số 0944.213.478 của Nguyễn Thiện N và một điện thoại Vertu S201806 màu vàng – đen có sim số 0936.576.576 của Nguyễn Văn D.

Xe mô tô biển số 94K1-250.95 (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe) Nguyễn Văn D sử dụng, đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không ai đến nhận.

Đối với Hoàng Đình Q chưa đủ căn cứ chịu trách nhiệm hình sự, về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại cáo trạng số 222/CT-VKS-DA ngày 24 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thiện N và Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và điểm h Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện N mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 để xử phạt Nguyễn Văn D mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy M1-1 = 0,6998 gam; M1-2 = 0,0415 gam; M2 = 0,0478 gam; M3-2 = 0,2171 gam là loại Heroin và M3-1 = 0,2063 gam là loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người lám chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 15 giờ ngày 03/01/2019, tại bãi xe container thuộc khu phố Bình Đường 1, phường An Bình, thị xã Dĩ An, Công an phường An Bình kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Thiện N đang tàng trữ 02 gói ma túy trong nón đội trên đầu và của Nguyễn Văn D thu 02 gói ma túy để chỗ ngồi và lập biên bản phạm tội quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thiện N và Nguyễn Văn D tàng trữ 0,8128 gam (M1-1); 0,0667 gam (M1-2); 0,0766 gam (M2); 0,2826 gam (M3-2) loại Heroin; 0,3592 gam (M3-1) Methamphetamine để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 222/CT–VKS-DA ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn D, không có; đối với bị cáo Nguyễn Thiện N phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tích, thuộc tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; đối với bị cáo Nguyễn Thiện N có mẹ là Nguyễn Thị L được chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo D và N nghiện ma túy;

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 bì thư đã niêm phong bên ngoài có chữ 90/MT-PC09, bên trong có ma túy khối lượng còn lại sau giám định là: M1-1=0,6998gam; M1-2=0,0415; M2=0,0478gam; M3-2= 0,2171 gam là Heroin và M3-1=0,2063 gam là loại Methamphetamine là vật cấm lưu thông, 02 sim số 0944.213.478, 0936.576.576 các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động GALAXY A6 màu đen của Nguyễn Thiện N và một điện thoại Vertu S201806 màu vàng – đen của Nguyễn Văn D sử dụng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Xét xe mô tô biển số 94K1-250.95 (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe) do bị can Nguyễn Văn D sử dụng, quá trình điều tra không xác định được chủ sở hữu, đã đăng thông báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không ai đến nhận, tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[8] Đối với người bán ma túy cho N do chưa rõ nhân thân, lai lịch tiếp tục điều tra xác minh khi nào có đủ cơ sở đề nghị xử lý sau.

[9] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiện N và Nguyễn Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện N 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2019.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giam ngày 03/01/2019 đến ngày 28/01/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong bên ngoài có chữ 90/MT- PC09, bên trong có ma túy khối lượng còn lại sau giám định là: M1- 1=0,6998gam; M1-2=0,0415; M2=0,0478gam; M-2=0,2171 gam là Heroin và M3-1=0,2063 gam là loại Methamphetamine và 02 sim số 0944.213.478, 0936.576.576;

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động GALAXY A6 màu đen; một điện thoại Vertu S201806 màu vàng – đen; xe mô tô biển số 94K1-250.95 và giấy chứng nhận đăng ký xe.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/6/2019, bút lục 153).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thiện N và Nguyễn Văn D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 277/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:277/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về