Bản án 276/2020/HNGĐ-ST ngày 23/06/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

 BẢN ÁN 276/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 153/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12-6-2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: anh Trần Danh T, sinh năm 1976; Đăng ký hộ khẩu: Số nhà 20 B (nay là 45/38 đường Lê Hồng Sơn), phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có đơn đề nghị xử vắng mặt.

- Bị đơn: chị Trần Thị Thanh N, sinh năm 1979; Đăng ký hộ khẩu: Số nhà 20 B (nay là 45/38 đường Lê Hồng Sơn), phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: KP7, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Chị Trần Thị Thanh N có đơn lựa chọn Tòa án nhân dân thành phố Nam Định giải quyết vụ án và có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nộp ngày 08-3-2020, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn anh Trần Danh T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Trần Thị Thanh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 15-7-2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hòa thuận, chị Trần Thị Thanh N đã bỏ đi thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Tình cảm vợ chồng giữa anh và chị N không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng và không có biện pháp khắc phục. Hiện tại, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn và có nguyện vọng xin ly hôn với chị N.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là: Trần Phương Linh, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2003 và Trần Minh Phương, sinh ngày 28 tháng 4 năm 2006. Trong thời gian ly thân anh chị mỗi người nuôi một cháu. Nếu vợ chồng ly hôn, anh đồng ý giao cả hai cháu Trần Phương Linh và cháu Trần Minh Phương cho chị Trần Thị Thanh N nuôi dưỡng. Anh nhất trí quan điểm của chị N anh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con Trần Minh Phương 3.000.000 đồng/01 tháng cho đến khi con trưởng thành, tự lập.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai vào ngày 22-5-2020 tại Tòa án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh bị đơn chị Trần Thị Thanh N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Danh T là vợ chồng. Anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 15-6-2002 tại Ủy ban nhân dân phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, anh chị đã nhiều lần cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Anh chị đã sống ly thân nhiều năm nay, vợ chồng không còn tình cảm. Nay anh T có nguyện vọng ly hôn, chị N đồng ý ly hôn với anh T.

Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Nếu ly hôn, chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cả hai con chung là Trần Phương Linh và Trần Minh Phương vì hiện nay 02 cháu đang sống chung với chị và học hành ổn định trong thành phố Hồ Chí Minh. Chị N không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi cháu Linh. Riêng cháu Phương chị N yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đồng/01 tháng cho đến khi cháu Phương thành niên.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 22-5-2020 tại Tòa án nhân dân quận 12, thành phố Hồ Chí Minh cháu Trần Minh Phương và cháu Trần Phương Linh có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Trần Thị Thanh N.

Tại đơn xác nhận của tổ dân phố số 9, phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định đã xác nhận tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị N là có mâu thuẫn, vợ chồng anh chị hiện đang sống ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát chủ yếu do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm. Anh chị có 02 con chung, hiện tại đang sinh sống cùng với chị N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị N là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh chị đã xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm dẫn tới cuộc sống chung của anh chị không còn trên thực tế. Nay hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử ly hôn giữa Anh Trần Danh T và chị Trần Thị Thanh N. Về nuôi con chung: Căn cứ nguyện vọng về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung của chị N, anh T, xét điều kiện hoàn cảnh sinh sống, học tập của hai cháu đồng thời, nguyện vọng của cháu Trần Minh Phương và Trần Phương Linh có nguyện vọng được ở với chị N, nên căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị giao 02 con chung Trần Minh Phương và Trần Phương Linh cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con Trần Minh Phương 3.000.000đồng/01 tháng cho đến khi con trưởng thành, tự lập. Anh T là nguyên đơn nên căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, anh T phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Danh T là nguyên đơn và chị Trần Thị Thanh N là bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T và chị N.

[2] Về hôn nhân: Anh Trần Danh T và chị Trần Thị Thanh N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 15-7-2002 nên hôn nhân giữa anh T và chị N là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về tình cảm: Sau khi kết hôn, cuộc sống chung của anh T và chị N phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng anh chị không hợp nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm. Hiện tại, vợ chồng anh chị sống ly thân nhiều năm nay, cuộc sống chung không còn trên thực tế. Nay anh T xác định không còn tình cảm với chị N và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, chị N cũng đồng ý ly hôn với anh T. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh T và chị N ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa anh T và chị N theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về nuôi con chung: Vợ chồng anh T và chị N có 02 con chung là Trần Phương Linh, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2003 và Trần Minh Phương, sinh ngày 28 tháng 4 năm 2006. Xét nguyện vọng của anh T, chị N đều thống nhất trong trường hợp vợ chồng ly hôn, chị N sẽ trực tiếp nuôi 02 con chung là Trần Phương Linh và Trần Minh Phương. Ngoài ra, nguyện vọng của cháu Trần Phương Linh và cháu Trần Minh Phương cũng muốn được ở với mẹ. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để giao cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung là Trần Phương Linh và Trần Minh Phương.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N yêu cầu anh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con Trần Minh Phương 3.000.000 đồng/tháng. Anh T cũng đồng ý. Xét sự tự nguyện của các đương sự phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử sẽ chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh T và chị N xác nhận vợ chồng không có tài sản gì chung, vay nợ gì chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội anh Trần Danh T là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm. Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa Anh Trần Danh T và chị Trần Thị Thanh N.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con chung Trần Phương Linh (giới tính: Nữ), sinh ngày 03 tháng 02 năm 2003 và Trần Minh Phương (giới tính: Nữ), sinh ngày 28 tháng 4 năm 2006 cho chị Trần Thị Thanh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Danh T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con Trần Minh Phương 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) một tháng kể từ tháng 6-2020 cho đến khi con Trần Minh Phương đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, tự lập được.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Trần Danh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Danh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí anh Trần Danh T đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0002868 ngày 29-4-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

Anh Trần Danh T còn phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Anh Trần Danh T và chị Trần Thị Thanh N có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 276/2020/HNGĐ-ST ngày 23/06/2020 về ly hôn

Số hiệu:276/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về