Bản án 274/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 274/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 270/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 285/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Bá H, sinh năm 1992 tại tỉnh Kiên Giang; HKTT: Tổ x, khu phố PK, phường VH, thành phố GR, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bá N và bà Nguyễn Thị Thu H1; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị T K (Không đăng ký kết hôn) và 01 người con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 19/5/2020. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Phạm Hoài Nh, sinh năm 1981; nơi cư trú: ACB khu phố TL, phường AT, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Phạm Hoài Đ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 19/5/2020, Nguyễn Bá H đi bộ trên đường thuộc khu vực phường An Thạnh, thành phố Thuận An để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi đi đến đoạn đường gần khu vực Cầu Trắng, khu phố Thạnh Lộc, phường An Thạnh thì phát hiện có chiếc xe mô tô biển số 61C1 – 671.95 của ông Phạm Hoài Nh dựng trên vỉa hè trước cửa nhà, có cắm sẵn chìa khóa trên xe, H lên xe mở chìa khóa đề máy để chạy đi nhưng xe không nổ máy; H dùng chân đạp vào cần khởi động nhưng xe cũng không nổ máy và bị ông Nh phát hiện, truy hô; H bỏ chạy được khoảng 50m thì bị ông Nh cùng người dân bắt được giao Công an phường An Thạnh lập biên bản phạm tội quả tang và đưa về trụ sở làm việc. Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô kiểu dáng Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 61C1-671.95; 01 áo sơ mi kẻ sọc caro đen – trắng; 01 nón kết màu đỏ; 01 khẩu trang y tế màu xanh.

Bn kết luận định giá tài sản ngày 22/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: 01 xe mô tô kiểu dáng Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 61C1-671.95 trị giá 12.000.000 đồng.

Bn Cáo trạng số 286/CT-VKS-TA ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Bá H về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Bá H mức hình phạt từ 10 tháng đến 12 tháng tù.

Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như Cáo trạng truy tố. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản là chiếc xe mô tô kiểu dáng Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 61C1-671.95 của ông Phạm Hoài Nh có trị giá 12.000.000 đồng.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bị cáo nhận thức được việc làm đó là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả đồng thời mong muốn chiếm đoạt được tài sản của bị hại để có tiền tiêu xài, do đó lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không gây oan sai cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nhưng vì tham lam, tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức hình phạt tương xứng để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; việc chiếm đoạt của bị cáo đã được phát hiện kịp thời và thu giữ tài sản trả cho bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị căn cứ vào các điều luật nêu trên để xử phạt bị cáo là phù hợp pháp luật, phù hợp với tính chất, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Tài sản bị chiếm đoạt là chiếc xe mô tô kiểu dáng Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 61C1-671.95. Qua điều tra đã xác định chủ sở hữu xe là ông Phạm Hoài Nh, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Nh, ông Nh không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

Đối với 01 áo sơ mi kẻ sọc caro đen – trắng; 01 nón kết màu đỏ; 01 khẩu trang y tế màu xanh là vật dụng cá nhân của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo không muốn nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá H phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá H 10 (Mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2020.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi kẻ sọc caro đen – trắng; 01 nón kết màu đỏ; 01 khẩu trang y tế màu xanh (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2020).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bá H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:274/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về