Bản án 274/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 274/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 290/2020/HSST ngày 25 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 293/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đức T - Sinh năm: 1973; HKTT: Tổ A, phường L, quận HM, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: tổ A, phường L, quận HM, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Văn hoá: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Đ và bà: Dương Thị B (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị T; Có 02 con. Con lớn sinh năm 2001. Con nhỏ sinh năm 2003. Tiền án, Tiền sự : Không; Danh chỉ bản số 463 lập ngày 22/5/2020 của Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/5/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Trịnh Thế M- Sinh năm: 1973; HKTT: thị trấn nông trường TP, huyện V, tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: không cố định; Nghề nghiệp: không; Văn hoá: 12/12:

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Trịnh Thế M (đã chết) và bà: Dương Thị Hồng M; Vợ: Không. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: 02 tiền án (đã xóa án tích); Bản án số 130/HSST ngày 22.7.2011 Tòa án nhân dân quận 12 thành phố Hồ Chí Minh xử 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành án xong ngày 22/5/2015 (đã xóa án tích); Bản án số 99/HSST ngày 16.9.2016, Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, Hà Nội xử 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành án xong ngày 17/11/2017 (đã xóa án tích) ; Danh chỉ bản số 488 lập ngày 23/5/2020 của Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/5/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/5/2020, tại khu vực trước cửa số 59 ngõ 112 Nam Dư, phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Lĩnh Nam phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Trịnh Thế Mạnh. Quá trình kiểm tra, tổ công tác thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Nguyễn Đức T đang mặc có 01 túi nilon, kích thước (10x10)cm bên trong có 08 gói nhỏ bọc giấy bạc màu trắng, kích thước mỗi gói khoảng (0,5 x 01)cm, đều chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, T khai nhận là ma túy heroine, T mang đi bán lẻ cho các con nghiện. Cơ quan công an kiểm tra thu giữ bên trong túi quần phía trước bên phải của Trịnh Thế M02 gói giấy bạc màu trắng, kích thước (0,5 x 0)cm đều chứa chất bột màu trắng, tại chỗ, M khai nhận 02 gói giấy bạc trên là ma túy heroine, M mua của T trước đó vào sáng cùng ngày, khi M quay lại tiếp tục mua ma túy của T nhưng chưa kịp mua bán giao dịch thì bị bắt giữ. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của Nguyễn Đức T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 1.400.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tang vật đưa các đối tượng về trụ sở để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại Bản kết luận giám định số 4056/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 08 gói giấy bạc (thu giữ của Nguyễn Đức T) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,597 gam.

- Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc (thu giữ của Trịnh Thế Mạnh) là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,188 gam.

Tại cơ quan công an, Nguyễn Đức T khai nhận: Bản thân T nghiện ma túy từ lâu, nhận thấy việc bán ma túy có lợi nhuận nên đã nảy sinh ý định mua ma túy về vừa sử dụng và vừa bán lẻ kiếm lời. Qua quan hệ xã hội T quen biết một đối tượng tên Kiên (không rõ lai lịch cụ thể ) hay đến nhà T để bán ma túy cho T. Khoảng 20 giờ 00 ngày 20/5/2020, Kiên đến nhà T tại địa chỉ số 59 ngõ 112 Nam Dư, Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội. Tại đây, T mua của Kiên 20 gói ma túy heroine với giá 1.000.000 đồng. Số ma túy mua được T vừa để sử dụng vừa để bán kiếm lời. Nếu có người hỏi mua T sẽ bán với giá 200.000 đồng/01 gói nhỏ, T lãi 150.000 đồng/01 gói.

Đến khoảng 08 giờ 00 ngày 21/5/2020, khi T đang đứng trước nhà tại số 59 ngõ 112 Nam Dư,P. Lĩnh Nam, Hoàng Mai, Hà Nội thì có Trịnh Thế Mđến gặp và hỏi mua ma túy. T đồng ý và bán cho M02 gói ma túy với giá 400.000 đồng. T đưa cho M02 gói ma túy và cầm số tiền 400.000 đồng cất vào túi quần đằng sau bên phải. Đến khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, Mtiếp tục quay lại nhà T hỏi mua 02 gói ma túy. Mđưa cho T số tiền 400.000 đồng, T cầm tiền và cất vào túi quần phía sau bên phải. Khi T đang định lấy 02 gói ma túy để đưa lại cho Mthì bị cơ quan công an phát hiện bắt giữ. Nguyễn Đức T khai nhận đã bắt đầu bán ma túy khoảng 01 đến 02 tuần gần đây, T không nhớ đã bán bao nhiều lần.

Tại cơ quan công an, Trịnh Thế Mkhai nhận: Lời khai của M khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Đức T. Bản thân M nghiện ma túy. Khoảng 08 giờ 00, Mđi bộ đến nhà T để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, M đã mua của T 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M cất 02 gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải và đi về. Đến khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, M tiếp tục đi đến nhà T để mua ma túy. Mđưa cho T 400.000 đồng để mua 02 gói ma túy, T cầm tiền và đang định lấy ma túy đưa cho M thì bị cơ quan công an bắt giữ. Cơ quan công an kiểm tra thu giữ trong túi quần Mcó 02 gói ma túy M đã mua của T trước đó. M khai nhận đã mua ma túy của T 05 đến 06 lần trước đó nhưng không nhớ thời gian cụ thể.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đức T, kết quả: không phát hiện thu giữ, đồ vật tài liệu liên quan.

Tiến hành kiểm tra điện thoại thu giữ của Nguyễn Đức T không phát hiện thông tin liên quan.

Xét nghiệm ma túy đối với Nguyễn Đức T và Trịnh Thế M kết quả: Dương tính với ma túy.

Đối với đối tượng tên Kiên bán ma túy cho T không rõ lai lịch nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với vật chứng thu giữ của Nguyễn Đức T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 1.400.000 đồng. Qua xác minh xác định điện thoại của T dùng để liên lạc cá nhân không sử dụng để mua bán ma túy, hiện đang nhập kho vật chứng Công an quận Hoàng Mai còn số tiền 1.400.000 đồng (trong đó: có 800.000 đồng là tiền bán ma túy còn lại là số tiền do lao động mà có), hiện đã nộp tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai.

Tại cáo trạng số 286/CT-VKS-HS ngày 21/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015, Trịnh Thế M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Các bị cáo khai nhận tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo T thừa nhận: khoảng 20h00’ ngày 20/5/2020, bị cáo mua 20 gói ma túy là Heroin với giá 1.000.000 đồng tại địa chỉ ngõ 112 Nam Dư, phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội của một người đàn ông không rõ lai lịch cụ thể tên Kiên với mục đích vừa sử dụng vừa bán kiếm lời. Khoảng 08 giờ ngày 21.5.2020 bị cáo đã bán cho Trịnh Thế M 02 gói Hêroin với giá 400.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo tiếp tục bán cho cho M2 gói hêroin. Mđã đưa cho bị cáo 400.000 đồng, bị cáo đã cầm tiền cất vào túi quần sau bên phải, khi bị cáo đang định lấy 02 gói ma túy để đưa cho Mthì bị công an phát hiện bắt giữ. Toàn bộ số ma túy bị công an thu giữ bị cáo mang đi mục đích bán lẻ cho các con nghiện, số còn lại bị cáo đã sử dụng hết. Bị cáo thừa nhận đã bán ma túy khoảng một tháng trước khi bị bắt, không nhớ đã bán bao nhiêu lần và bán cho ai. Bị cáo đã biết tội, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Mthừa nhận: khoảng 08 giờ ngày 21.5.2020 bị cáo đến nhà Nguyễn Đức T tại số 59 ngõ 112 Nam Dư, phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội mua của T 02 gói Hêroin với giá 400.000 đồng rồi cất vào túi quần phía trước bên phải đang mặc, mục đích để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo tiếp tục đến nhà T mua 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng. T đã cầm tiền và đang định lấy ma túy đưa cho bị cáo thì bị công an bắt giữ tại khu vực trước ND, phường L, quận H, Hà Nội.

Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Đức T theo điểm b khoản 2 Điều 251, Trịnh Thế Mtheo điểm c khoản 1 Điều 249, các bị cáo không có ý kiến thắc mắc gì. Các bị cáo đã biết tội, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Đức T với mức án từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Thế M với mức án từ 22 tháng đến 26 tháng.

Tang vật: - Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Nguyễn Đức T và Giám định viên:

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Trịnh Thế M và Giám định viên:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh, số Imeil:

359417096547859; Imeil 2: 359417096747855, kiểm tra thực tế không khởi động được máy, không kiểm tra được Imeil, đã niêm phong có chữ ký của cán bộ điều tra Trần Phong thu giữ của bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội, trả lại cho bị cáo T.

- Số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo T, trong đó có 800.000 là tiền bán ma túy mà có, tịch thu sung quỹ nhà nước; 600.000 đồng là tiền riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, trả lại cho bị cáo T.

Miễn phạt tiền đối với các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng của quận Hoàng Mai thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra. Được chứng minh bằng tang vật vụ án thu được tại túi quần phía trước bên phải của Nguyễn Đức T đang mặc có 01 túi nilon bên trong có 08 gói nhỏ bọc giấy bạc màu trắng và tang vật thu giữ bên trong túi quần phía trước bên phải của Trịnh Thế M 02 gói giấy bạc màu trắng đều chứa chất bột màu trắng. Tại Bản kết luận giám định số 4056/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 08 gói giấy bạc (thu giữ của Nguyễn Đức T) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,597 gam. Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc (thu giữ của Trịnh Thế Mạnh) là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,188 gam. Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 8 giờ ngày 21/5/2020, tại khu vực trước cửa ND, phường L, quận H, Hà Nội bị cáo Nguyễn Thế M có hành vi tàng trữ trái phép 0,188 gam hêrôin mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế M đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo Nguyễn Đức T có hành vi bán 02 gói hêroin với khối lượng 0.188 gam cho Trịnh Thế M vào 8 giờ ngày 21/5/2020. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/5/2020 bị cáo đang có hành vi nhận 400.000 đồng để bán trái phép 02 gói ma túy hêroine cho Trịnh Thế M nhưng đang định lấy ma túy đưa cho M thì bị bắt giữ. Toàn bộ số ma túy bị Công an thu giữ bị cáo mang đi với mục đích bán lẻ cho các con nghiện. Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý và chất gây nghiện khác, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, mà còn làm gia tăng các tệ nạn về ma tuý và các loại tội phạm khác trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, quận Hoàng Mai nói riêng. Ma túy với một tác hại khôn lường do sức tàn phá của nó, chính vì vậy mà Nhà nước và cả cộng đồng xã hội ra sức tìm cách bài trừ. Các bị cáo nhận thức được điều này, song do nghiện ma túy hoặc hám lời nên vẫn cố tình phạm tội. Bị cáo Nguyễn Đức T đã 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Thế M. Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo T khai nhận toàn bộ số ma túy bị công an thu giữ bị cáo mang đi mục đích bán lẻ cho các con nghiện và đã bán ma túy khoảng một tháng trước khi bị bắt, không nhớ đã bán bao nhiêu lần và bán cho ai. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung nhằm hạn chế các loại tội phạm khác trên địa bàn quận Hoàng Mai, cũng đồng thời tạo một khoảng thời gian để các bị cáo được cai nghiện ma túy trong môi trường pháp luật.

[4] Về nhân thân và tiền án, tiền sự của các bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Đức T chưa có tiền án tiền sự. Đối với bị cáo Trịnh Thế M nhân thân có 02 tiền án đã xóa án tích. Mặc dù các tiền án của bị cáo đều đã được xóa nhưng cũng chứng tỏ bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhiều lần nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội.

Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điều 38 Bộ luật hình sự buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội và nhân thân của các bị cáo.

[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án đã xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo, cụ thể:

- Tình tiết tăng nặng: Không có - Tình tiết giảm nhẹ:

Các bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về tội lỗi của mình. Đây là tình tiết để giảm nhẹ cần áp dụng tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định, thì người phạm tội có thể còn bị phạt tiền. Tuy nhiên, xét trong trường hợp này các bị cáo không có nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Nguyễn Đức T và Giám định viên:

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Trịnh Thế M và Giám định viên:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh, số Imeil: 359417096547859; Imeil 2: 359417096747855, kiểm tra thực tế không khởi động được máy, không kiểm tra được Imeil, đã niêm phong có chữ ký của cán bộ điều tra Trần Phong, thu giữ của bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 800.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T, là tiền do bị cáo bán ma túy mà có.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức T số tiền 600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T là tiền riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [9] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Nguyễn Đức T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2020.

- Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trịnh Thế M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Trịnh Thế M 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/5/2020.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Nguyễn Đức T và Giám định viên:

- Tịch thu tiêu huỷ tang vật là ma tuý Hêroin được niêm phong trong 01 phong bì có chữ ký xác nhận của Trịnh Thế M và Giám định viên:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh, số Imeil: 359417096547859; Imeil 2: 359417096747855, kiểm tra thực tế không khởi động được máy, không kiểm tra được Imeil, đã niêm phong có chữ ký của cán bộ điều tra Trần Phong, thu giữ của bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 800.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T, là tiền do bị cáo bán ma túy mà có.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức T số tiền 600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T là tiền riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/8/2020 giữa Công an quận Hoàng Mai, Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàng Mai và Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 22/5/2020 tại Kho bạc nhà nước quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội).

- Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 khoản 1; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21 khoản 1 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Buộc bị cáo Nguyễn Đức T, Trịnh Thế M, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Mỗi bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:274/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về