Bản án 274/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 274/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 257/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 290/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lâm Hoàng D, sinh năm 1982. Tại: B. Nơi ĐKHKTT: Khóm 3, phường 5, thành phố B, tỉnh B. Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh C và bà Nguyễn Thị Thúy T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/4/2020 đến ngày 26/4/2020 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và tại ngoại cho đến nay; có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Hữu S, sinh năm 1996. Tại: Q. Nơi ĐKHKTT: Thôn R, xã T, huyện Q, tỉnh Q. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu S và bà Nguyễn Thị Hương T; Vợ Hoàng Thị Thảo N; bị cáo có 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị bắt ngày 18/4/2020 và tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1968. Địa chỉ: Phường B, thị xã B, tỉnh Q, (vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Hữu S, sinh năm 1970. Địa chỉ: Thôn R, xã T, huyện Q, tỉnh Q, (vắng mặt)

- Người làm chứng: Đỗ Văn D, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lâm Hoàng D và Nguyễn Hữu S là bạn bè quen biết nhau và cùng là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 23 giờ ngày 17/4/2020, trong lúc Lâm Hoàng D đang ở xưởng cơ khí, địa chi tại khu 5, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì Nguyễn Hữu S đến chơi. Trong lúc ngồi chơi, D kêu S chở đi ăn mì gõ thì S đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh - đen, biến số 73N4- 50XX chở D đi. Khi cả hai đi đến ngã tư Đất Thánh thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì D nói với S là D đi mua ma túy về để cả hai sử dụng chung rồi kêu S chạy xe qua bên kia đường ăn mì gõ trước và chờ D. Lúc này, D xuống xe và đi bộ đến chỗ người nam (hiện không xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) để hỏi mua ma túy đá (Methamphetamine) với số tiền 200.000 đồng thi người nam này nhận tiền và đưa cho D 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, D cầm gói ma túy trong tay phải rồi đi bộ đến chỗ S và cùng với S đang ngồi ăn mì gõ. Sau khi ăn xong, S điều khiển xe mô tô biển số 73N4-50XX chở D đi về và trên đường đi về thì D nói với S là D đã mua được ma túy đá để chút về cả hai cùng sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 15 phút ngày 18/4/2020, khi Sang điều khiển xe mô tô biển số 73N4-50XX chở D đi đến đường Nguyễn Văn Trỗi, đoạn thuộc phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phường Hiệp Thành đi tuần tra thấy D và S có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu D và S dừng xe để kiểm tra thì phát hiện D đang cầm trên tay 01 gói nylon miệng hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và D cùng S đều khai nhận đó là ma túy đá do D mua về để cùng S sử dụng nên Công an phường Hiệp Thành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lâm Hoàng D và Nguyễn Hữu S về hành vi Tàng trữ hái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định) và 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen biển số 73N4-50XX.

Ngày 22/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương có Kết luận giám định số 223/MT-PC09, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon miệng hàn kín trong một bì thu được niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S, cán bộ niêm phong Trần Quang H và hình dấu đỏ của Công an phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là ma túy, có khối lượng 0,3560g, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định 0,2368g loại Methamphetamine (đã được niêm phong). Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định, tịch thu, tiêu hủy.

Đối với người nam đã bán ma túy cho Lâm Hoàng D, quá trình điều tra xác định: Duy không biết rõ họ tên và địa chỉ cư trú của người nam này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Ông Nguyễn Hữu S, sinh năm 1970 cư trú tại thôn R, xã T, huyện Q, tỉnh Q (là cha của Nguyễn Hữu S) khai nhận xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen biển số 73N4-50XX do ông S mua của một người nam không rõ nhân thân, lai lịch, khi mua không làm thủ tục sang tên theo quy định, sau đó ông S cho Nguyễn Hữu S mượn xe để làm phương tiện đi làm. Qua điều tra xác định: xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen biển số 73N8-04XX (số khung RLCS5C6308Y170193, số máy 5C63170193) do anh Trần Xuân P sinh năm 1990, cư trú tại ấp D, xã Đ, thành phố Đ, tỉnh Q đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Anh P bị mất trộm xe mô tô trên vào tháng 11/2010 tại phường Bình Hiên, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã có công văn gửi Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đề nghị tiếp nhận tang vật vụ án để xử lý theo thẩm quyền

Cáo trạng số 273/CT-VKS-HS ngày 05/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lâm Hoàng D mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu S mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đối với 01 bì thư niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lâm Hoàng D và Nguyễn Hữu S cán bộ niêm phong Nguyễn Nam P và hình dấu đỏ Công an phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine trọng lượng sau giám định 0,2368gam theo kết luận giám định số 223/MT -PC09 ngày 22/4/2020 là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S không có ý kiến tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Duy, Sang đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người làm chứng, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Bị cáo D, S là bạn bè và cùng sử dụng ma túy chung (Methamphetamine). Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 17/4/2020 Sang điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen biển số 73N4-50XX chở Duy đi chơi khi đến Ngã tư Đất Thánh, thị xã Thuận An thi D nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên kêu S qua bên kia đường chờ, còn D đi bộ mua 01 gói ma túy của một người nam (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 200.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, D chở S về đến đường Nguyễn Văn Trỗi, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phường Phú Lợi kiểm tra, phát hiện, bắt giữ hai bị cáo. Theo Bản kết luận giám định số 223/MT-PC09 ngày 22/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Ma túy mà các bị cáo tàng trữ là Methamphetamine có khối lượng 0,3560gam nên hành vi mà các bị cáo Duy, Sang thực hiện đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, cả hai bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, mua và tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng. Bị cáo D là người nảy sinh ý định và trực tiếp bỏ ra số tiền 200.000 đồng để mua ma túy cho cả hai sử dụng. Bị cáo S khi được D rủ rê mua ma túy bị cáo đồng ý ngay, sử dụng xe chở D đi mua ma túy. Do bị cáo D đang trong thời gian cai nghiện, cắt cơn chờ xử lý hành chính lại tiếp tục mua ma túy về sử dụng nên mức hình phạt của bị cáo phải cao hơn bị cáo Sang và để giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung Hội đồng xét xử cần xử các bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, ông Nội bị cáo là ông Nguyễn Trường T tham gia cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.

[6] Đối chiếu với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ vào nhân thân các bị cáo, xét mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đối với bị cáo D là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận, mức hình phạt đối với bị cáo S là cao nên Hội đồng xét xử xử bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 bì thư niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lâm Hoàng D và Nguyễn Hữu S cán bộ niêm phong Nguyễn Nam P và hình dấu đỏ Công an phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine trọng lượng sau giám định 0,2368gam theo kết luận giám định số 223/MT -PC09 ngày 22/4/2020 là tang vật của vụ án, không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố các bị cáo Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1./ Về hình phạt:

1.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lâm Hoàng D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án được khấu trừ thời gian tạm giữ trước đây từ ngày 18/4/2020 đến ngày 26/4/2020.

1.2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu S 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/4/2020.

2./ Về vật chứng của vụ án, tuyên: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lâm Hoàng D và Nguyễn Hữu S cán bộ niêm phong Nguyễn Nam P và hình dấu đỏ Công an phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine trọng lượng sau giám định 0,2368gam theo kết luận giám định số 223/MT -PC09 ngày 22/4/2020

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 002.21 ngày 01/10/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một)

3./ Về án phí: Buộc Lâm Hoàng D, Nguyễn Hữu S mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:274/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về