Bản án 274/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 274/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 259/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 08 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 292/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, sinh năm 1985 tại tỉnh Ninh Bình; thường trú: Thôn S X, xã Qu L, huyện Nh Qu, tỉnh Ninh Bình; chỗ ở: Khu phố B, phường T H, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Minh A, sinh năm 1949 (đã chết) và bà Đào Thị S, sinh năm 1953; bị cáo có 04 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1972, nhỏ nhất sinh năm 1982; bị cáo có vợ tên là Phan Thị H, sinh năm 1987; có 01 con ruột, sinh năm 2010; tiền sự: Không; tiền án:

- Ngày 29/02/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 101/2012/HSST, chấp hành xong hình phạt vào tháng 01/2014;

- Ngày 27/8/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 05 năm tù về tội Cướp giật tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 527/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 29/01/2018;

Nhân thân: Ngày 08/9/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xử phạt 18 tháng tù về tội Cướp tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 74/HSST.

Bị bắt tạm giam ngày 10/10/2018 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1981; thường trú: Thôn S, xã V K, huyện V L, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phan Thị H, sinh năm 1987; thường trú: Thôn S X, xã Qu L, huyện Nh Qu, tỉnh Ninh Bình, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Duy H, sinh năm 1998; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Quốc Nhật Tr, sinh năm 1980; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/10/2018, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô biển số 35B2-457.77 đi từ thành phố Bi H, tỉnh Đồng Nai đến thị xã D A, tỉnh Bình Dương để trả nợ cho bạn. Khi đi đến đoạn đường Ng Tr Ph thuộc khu phố Nh Đ 2, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy bà Nguyễn Thị H đi bộ bên đường và rẻ vào hẻm 9Đ, trên cổ bà H có đeo một sợi dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật và một mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh. Lúc này, L điều khiển xe mô tô quay lại rẽ vào hẻm 9Đ, áp sát dùng tay trái giật mạnh sợ dây chuyền trên cổ bà H, bỏ sợi dây chuyền vào túi quần trước bên trái rồi tăng ga bỏ chạy về đường Ng Tr Ph được khoản 10m thì bị té ngã. Bị giật tài sản, bà H truy hô “cướp cướp” thì được người dân hỗ trợ bắt giữ L cùng tang vật.

Căn cứ vào biên bản Kết luận định giá số: 297/BB.ĐG ngày 18/10/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ, trị giá 9.285.600 đồng và một mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ, trị giá 2.883.200 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt 12.168.800 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận định giá số: 297/BB.ĐG ngày 18/10/2018 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đối với 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ và 01 (một) mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ, đã thu hồi trả lại cho bà Nguyễn Thị H, đến tháng 01/2019 bà H bán số vàng này cho một người tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không tiến hành giám định vàng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tại bản cáo trạng số 281/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 05 năm đến 06 năm tù.

* Về xử ý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77, sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản chung của vợ chồng Nguyễn Văn L và bà Phan Thị H nên đề nghị tịch thu ½ giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77 và trả lại ½ giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77 cho bà Phan Thị H.

* Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ và 01 (một) mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ, đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Thị H, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và trách nhiệm dân sự đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 10/10/2018, tại đoạn đường Ng Tr Ph thuộc khu phố Nh Đ 2, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Văn L sử dụng xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77 áp sát giật 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ và một mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ đang đeo trên cổ của bà Nguyễn Thị H, rồi nhanh chóng tẩu thoát nhưng bị té ngã nên bà H truy hô và cùng người dân bị bắt giữ L cùng tang vật. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt 12.168.800 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Văn L dùng xe mô tô áp sát giật sợi dây chuyền của bị hại rồi nhanh chóng tẩu thoát đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” đồng thời bị cáo có tiền án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên bị cáo phải chịu thêm tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” theo quy định. Do đó, Cáo trạng số 281/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, sức khỏe, tính mạng của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có nhiều tiền án về tội Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đã xâm phạm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, đồng thời bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án về tội Cướp giật tài sản chưa được xóa án tich nay lại tiếp tục phạm tội mới chứng tỏ bị cáo là người xem thường pháp luật, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77, sử dụng làm phương tiện phạm tội là tài sản chung của vợ chồng Nguyễn Văn L và bà Phan Thị H nên tịch thu vào Ngân sách Nhà nước ½ giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77 và trả lại cho chị Phan Thị H ½ giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ và 01 (một) mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ, đã thu hồi trả lại cho chị Nguyễn Thị H, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Đối với 01 (một) một sợ dây chuyền vàng 18K dạng khoen lật, trọng lượng 4,48 chỉ và một mặt dây chuyền vàng 18K dạng bốn cánh, trọng lượng 1,36 chỉ, đã thu hồi trả lại cho chị Nguyễn Thị H, đến tháng 01/2019 chị H bán số vàng này cho một người tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương không tiến hành giám định vàng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, là đúng quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 10/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước ½ (một phần hai) giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77.

- Trả lại cho bà Phan Thị H ½ (một phần hai) giá trị xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đỏ đen, biển số 35B2-457.77.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:274/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về