Bản án 274/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 274/2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 266 /2017/HSST ngày 12 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc N, tên gọi khác: không; sinh ngày 15 tháng 6 năm 1982; ĐKHKTT: Thôn V, xã S, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở: Lang thang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh: Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 7/12; con ông: Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1954 (hiện bỏ đi đâu không rõ); con bà: Lê Thị Ng2, sinh năm 1954, hiện cư trú tại: xã C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Chưa có vợ, con; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2017 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.  ( Có mặt tại phiên toà)

Người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm: 1987, trú tại: Tổ 9, phường T1, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Ngọc N bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Håi 7 giờ, ngày 11/6/2017 tổ công tác của công an phưêng Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên  đang làm nhiệm vụ trên đường Bến Tượng, thuộc tổ 9 phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, phát hiện có 01 người đàn ông đang đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma tuý, tổ công tác tiếp cận kiểm tra. Người đàn ông tự khai tên là Nguyễn Ngọc N, N tự giác lấy từ trong mũ lưỡi trai đang đội trên đầu ra 02 gói nhỏ (01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, 01 gói được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, N khai nhận đó là Hêrôin). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quảtang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày Cơ quan Công an đã tiến hành cân xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Ngọc N được 0,187 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số 744/KL – PC 54 ngày 16/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của N là chất ma túy, loại Hêrôin, có trọng lượng (khối lượng) là: 0,187 gam.

Tạo cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc N khai nhận: Khoảng 5 giờ ngày 11/6/2017 N đi bộ sang đường tròn Chùa Hang, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên để mua ma tuý về sử dụng, N gặp 01 người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ, hỏi N: “Có mua ma túy không” N đồng ý mua của người đàn ông này 02 gói nhỏ Hêrôin, với giá 100.000 đồng, mua xong N cho gói Hêrôin vào mũ lưỡi trai đang đội trên đầu đi đến khu vực tuyến đường Bến Tượng, thuộc tổ 9, phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời nhận tội của Nguyễn Ngọc N phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu A1..Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 286 /KSĐT-MT ngày 11/7/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên công bố bản luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm đã truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13; Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Ngọc N: Từ 24 đến 30 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41BLHS; Điều 76 BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt được sớm trở về cùng gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người làm chứng, Hội đồng xét xử

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Ngọc N khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 07 giờ ngày 11/6/2017, tại tổ 9, phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc N đã có hành vi tàng trữ 0,187 gam Hêrôin, để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc N về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Khoản 1 Điều 194 BLHS quy định như sau:

“1. Người nào….tàng trữ trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Xét tính chất của vụ án là N trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện ma túy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ Luật hình sự.

Căn cứ Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 của Quốc hội quy định: Các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.

Dẫn chiếu tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức hình phạt cao nhất là 5 năm tù, nhẹ hơn mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Vì vậy, áp dụng hình phạt theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

Hội đồng xét xử xét thấy nên giảm cho bị cáo một mức hình phạt để bị cáo thấy rõ lượng khoan hồng của pháp luật, tích cực cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

Ngoài hình phạt tù lẽ ra cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, bản thân sống phụ thuộc vào gia đình, theo biên bản xác minh của cơ quan điều tra không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

Trong vụ án này theo Nguyễn Ngọc N khai mua Hêrôin của 01 người đàn ông ở đường tròn Chùa Hang, Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người trên, nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Áp dụng Điều 228 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định tạm giam bị cáo với thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản ántheo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Nguyễn Ngọc N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ 11/6/2017.

- Áp dụng Điều 228 của Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Ngọc N 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

- Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 317 ngày 07/7/2017 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Ngọc N phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 274/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:274/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về