Bản án 272/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 272/2021/HSST NGÀY 25/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 250/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 260/2021/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Trung Đ, tên gọi khác: không. Sinh ngày 12/8/1966. ĐKHKTT: Xóm H, xã C, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên ; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Quang T; Con bà Nguyễn Thị H; Vợ là Phó Thị S; Có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2021). Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Ông Tô Thanh H1, sinh năm 1983. Vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã C, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 05 phút ngày 01/4/2021, tổ công tác của Công an xã Cao Ngạn , thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực xóm T, xã C, thành phố TN thì phát hiện 01 người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công yêu cầu kiểm tra, người đàn ông chấp hành, khai tên là Trần Trung Đ. Qua kiểm tra, Đ tự giác lấy từ túi quần bên phải Đ đang mặc ra 02 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác, Đ khai nhận là ma túy (Heroine) mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ và niêm phong thu giữ vật chứng.

Cùng ngày , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong bì niêm phong , cân xác định khôi lượng số chất bột màu trắng thu được của Đ có khối lượng 0,213 gam, lấy 0,122 gam cho bì niêm phong ký hiệu Đ gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 685/KL-KTHS ngày 09/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Đ gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,213 gam.

Tại Cơ quan điều tra Trần Trung Đ khai nhận: Đ là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2020 đến nay chưa bỏ được. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/4/2021 Đ đi bộ từ nhà đến khu vực xóm Tân Thành, xã C, thành phố TN, mục đích tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, Đ gặp và mua của 01 đàn ông (Không rõ lai lịch, địa chỉ) 02 gói ma túy (Heroine) được gói bằng giấy màu trắng với giá 200.000 đồng. Mua xong, Đ cất giấu 02 gói ma túy trên vào túi quần bên phải Đ đang mặc và đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác của Công an xã Cao Ngạn phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong ký hiệu Đ, Đ1 (Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và Bì niêm phong chứa chất ma túy ban đầu - Mặt sau bì có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT- Công an thành phố Thái Nguyên). Hiện vật chứng đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 258/CT-VKSNDTPTN, ngày 18/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Trung Đ khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã mô tả. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan, sai.

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, Đ diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Trần Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Trần Trung Đ từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong Đ, Đ1 bên trong chứa ma túy. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 05 phút ngày 01/4/2021, tại khu vực xóm Tân Thành, xã C, thành phố TN, Trần Trung Đ có hành vi tàng trữ 0,213 gam Heroine mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ Công tác Công an xã C, thành phố TN phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Trần Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ. Nội dung điều luật như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c, Heroine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt vị Đ diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 02 bì niêm phong ký hiệu Đ, Đ1, bên trong chứa ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn gốc số ma tuý thu giữ, Đ khai mua của 1 người đàn ông (Không rõ lai lịch địa chỉ) ở khu vực xóm Tân Thành, xã C, thành phố TN. Quá trình điêu tra không xac đinh được nhân thân lai lich cua người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Trung Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu Đ bên trong chứa 0,112g (Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Nguyên và bì niêm phong chứa chất ma túy ban đầu; 01 bì niêm phong ký hiệu Đ1 bên trong chứa 0,091g (Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mặt sau bì có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT- Công an thành phố Thái Nguyên).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 414 ngày 27/5/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 272/2021/HSST ngày 25/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:272/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về