Bản án 27/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2021 tại: Hội trường xét xử củaTòa án nhân dân huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An. Tòa án đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HS ngày tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Dương Hồng L ; tên gọi khác: Không; Giới tính: nam;sinh ngày 23/5/1988;Nơi sinh và nơi cư trú: xóm 1, xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không;Nghề nghiệp: Thợ máy tàu biển; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12;Họ tên cha: Dương Hồng K, sinh năm 1954; Họ tên mẹ: Hồ Thị Th, sinh năm 1957; Anh chị em ruột: Có 05 anh em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình;Vợ: Đậu Thị Thúy sinh năm 1992; Con: có 01 người, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không;Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2020 đến ngày 22/02/2021.

2. Họ và tên: Nguyễn Thế Thọ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh ngày 19/5/1991;Nơi sinh và nơi cư trú: xóm 19+20, xã Nghi Văn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An;Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; Họ tên cha: Nguyễn Thế L sinh năm 1958; Họ tên mẹ: Phạm Thị Tr sinh năm 1962;Anh chị em ruột: Có 03 người bị cáo là con thứ 02 trong gia đình;Vợ, con: Chưa có;Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/9/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xử phạt 7 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Tội trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2020 đến ngày 24/02/2021.

3. Họ và tên: Dương Hồng Th ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;sinh ngày 16/8/1992;Nơi sinhvà nơi cư trú: xóm 1, xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không;Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12;Họ tên cha: Dương Hồng K, sinh năm 1954;Họ tên mẹ: Hồ Thị Th, sinh năm 1957; Anh chị em ruột: Có 05 anh em, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình;Vợ: Nguyễn Thị Phượng, sinh năm 1990; Con: có 02 người, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014;Tiền án, tiền sự: không;Nhân thân: + Ngày 19/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 13/7/2011; năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thành đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2020 đến ngày 24/02/2021.

4. Họ và tên: Võ Hải Đăng; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;sinh ngày 16/7/1996; Nơi sinhvà nơi cư trú: xóm 19+20, xã Nghi Văn, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12;Họ tên cha: Võ Quang L, sinh năm 1949; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1954; Anh chị em ruột: Có 04 anh em, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình;Vợ, con: Chưa có;Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thành đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2020 đến ngày 24/02/2021.

5. Họ và tên: Hồ Sỹ H ; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;sinh ngày 17/7/1975;Nơi sinh và nơi cư trú: xóm 1, xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ trước khi phạm tội: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; Họ tên cha: Hồ Sỹ Nh (Đã chết); Họ tên mẹ: Thái Thị Nguyệt; Anh chị em ruột: Có 06 anh em, bị cáo là con thứ 06 trong gia đình;Vợ: Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1976; Con: có 05 người, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2020 đến ngày 24/02/2021.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 22 giờ 00 phút ngày 13 tháng 11 năm 2020, tại nhà ở của Dương Hồng Th ở xóm 1, xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang Dương Hồng L đang có hành vi bán trái phép chất 0,405 g (không phẩy bốn trăm linh năm gam) Methamphetamine cho Nguyễn Thế Th và Võ Hải Đ (Nguyễn Thế Th và Võ Hải Đ mua ma túy để sử dụng).

Qua quá trình đấu tranh, điều tra, xác minh các bị cáo Dương Hồng L , Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Nguyễn Thế Thọ, Hồ Sỹ H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mua bán và tàng trữ ma túy của mình như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11 năm 2020, Võ Hải Đ sử dụng số thuê bao 0363803528 gọi điện thoại vào số thuê bao 0376010001 của Nguyễn Thế Th nhờ gọi cho Dương Hồng Th để mua ma túy, Th đồng ý. Th và Đ gặp nhau, Th sử dụng số thuê bao 0376010001 gọi điện thoại vào số thuê bao 0377289117 của Dương Hồng Th và nói “bạn có lấy được đồ không lấy giúp mình mấy trăm”, (ý Nguyễn Thế Th nhờ Dương Hồng Th mua ma túy) Th đồng ý. Đến khoảng 21 giờ 12 phút ngày 13 tháng 11 năm 2020, Th đang ở nhà thì nhận được cuộc gọi từ số thuê bao 0836404098 của Dương Hồng L . Th hỏi L muốn nhờ L mua ma túy, thì L . L sử dụng số thuê bao 0836404098 gọi điện thoại vào số thuê bao 0961027154 của H và nhờ mua ma túy. Một lúc sau tại nhà Th , L đi ra đưa cho H số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và nói “cháu đưa cho cụ ba trăm cụ lấy cho cháu được bốn con” (ý là ba trăm nghìn mua 4 viên ma túy), do khi nhờ mua ma túy L không nói mục đích mua ma túy để làm gì; Cũng như H biết L là người nghiện ma túy, cả hai đã từng sử dụng ma túy chung với nhau, nên H nghĩ L nhờ mua ma túy là về để sử dụng thì H đồng ý.

Nguyễn Thế Thọ, Võ Hải Đ và Dương Hồng Th khai nhận đã gặp và đưa cho Nguyễn Thế Th số tiến 900.000đ để tiền mua ma túy, Th nói với L “lấy chín trăm anh nhá” rồi Th đưa cho L số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng), còn lại 100.000đ (một trăm nghìn đồng) thì Th cất giữ. Nhận tiền, L gọi điện thoại cho H nói „nhờ cụ lấy thêm cho cháu bốn trăm nữa” nhưng H không đồng ý. Sau đó, H hẹn L đến khu vực đồi trước nhà L để lấy 01 gói bằng bao ni lông màu đen bên trong có chứa 04 (bốn) viên ma túy tổng hợp. L cầm lấy gói ma túy đi đến nhà ở của Th . L ngồi xuống chiếu, lấy trong túi quần ra số tiền 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) và nói với Th “đưa một trăm đây để trả cho mấy thằng em cho đủ”. Sau đó Th đưa cho L số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) mà Th cất giữ trước đó. L trả lại cho Đ số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) và nói với Đ và Th “anh em thông cảm, anh chỉ mua được có bốn viên, anh em có lấy thì lấy, không thì hẹn hôm khác lấy”, thì Th nói với Đ “răng em có lấy không, không thì ta đi về”. Sau đó Đ và Th bàn bạc với nhau một lúc thì đồng ý mua số ma túy trên nên Đ đưa cho L số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), L cầm lấy số tiền này rồi kẹp vào trong chiếc ví da màu nâu, để trên chiếc chiếu và chuẩn bị đưa gói ma túy cho Đ và Thọ, thì bị tổ công tác Công an xã Bảo Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ: 01 (một) bao ni lông màu đen bên trong có chứa 04 (bốn) viên nén hình tròn màu đỏ; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 4 màu xanh thu giữ của Đăng, 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu đen thu giữ của L ; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo 1906 màu xanh thu giữ của Th ; Số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) thu giữ của L Số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Đăng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và đưa đối tượng về trụ sở làm việc .

Ngày 18/11/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Hồ Sỹ H . Tại cơ quan điều tra H khai nhận: Sau khi nhận được số tiền 300.000 đồng từ Dương Hồng L , thì H đi lên khu vực xã Đại Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, gặp một người đàn ông tên Nghệ và hỏi mua với người này 400.000 đồng (trong đó 300.000 đồng của L và 100.000 đồng của H ) thì mua được 5 viên. Mua được ma túy, H đi về đưa cho L 04 viên, còn 01 viên là do H bỏ tiền ra mua, sau đó, H đi về nhà mình và sử dụng hết 01 viên ma túy đó, khi L nhờ mua ma túy, H đã đồng ý và nghĩ L mua về là để sử dụng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh người đàn ông tên Nghệ ở xã Đại sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho H theo lời khai của H , do không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không thể xử lý trong vụ án này.

Tại bản kết luận giám định số: 1507/KL-PC09(MT) ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Dương Hồng L gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Các viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Dương Hồng L có khối lượng là 0,405g (không phẩy bốn trăm linh năm gam).

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo Dương Hồng L , Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Nguyễn Thế Thọ, Hồ Sỹ H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Nguyễn Thế Th có bố mẹ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, Hồ Sỹ H có bố mẹ là dân công hỏa tuyến được nhà nước chứng nhận.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-HS ngày 26/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Hồng L đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo L từ 30 đến 36 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ bị cáo 14/11/2020.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thế Thọ, Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Hồ Sỹ H phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Đề nghị áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Dương Hồng Th từ 18 đến 21 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ bị cáo 14/11/2020.

Đề nghị áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thế Th từ 18 đến 21 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ bị cáo 14/11/2020.

Đề nghị áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Hải Đ từ 15 đến 18 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ bị cáo 14/11/2020.

Đề nghị áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hồ Sỹ H từ 12 đến 15 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ bị cáo 18/11/2020.

Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao ni lông màu đen bên trong có chứa 04 (bốn) viên nén hình tròn màu đỏ có khối lượng 0,405 gam đã lấy 0,2 gam (02 viên) đi giám định và không hoàn lại, hiện còn 0,205 gam (02 viên);

Tịch thu sung công và bán hóa giá sung công 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 4 màu xanh; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu đen; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo 1906 màu xanh; Số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) thu giữ của L . Trả lại cho Võ Hải Đ số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) thu giữ của Đăng.

Đề nghị: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban TH vụ Quốc Hội buộc các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành : Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai tại phiên tòa của bị cáo là phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 22 giờ 00 ngày 13/11/2020, kết luận giám định số 1507/KL-PC09(MT) ngày 23 tháng 11 năm 2020của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: bị cáo bị cáo Dương Hồng L đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 . Các bị cáo Nguyễn Thế Thọ, Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Hồ Sỹ H phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm:

Đây là vụ án trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và chế độ quản lý đặc biệt đối với việc tàng trữ chất ma túy. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không chịu cai nghiện và tu dưỡng bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội. Hành vi mua bán của L để kiếm lợi nhuận và tàng trữ 0,405 gam ma túy (Methamphetamine)của các bị cáo Th , Thọ, Đăng, H nhằm mục đích sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi tH pháp luật. Các bị cáo là người trực tiếp giao dịch với người bán ma túy với mục đích sử dụng vì vậy, cần lên mức hình phạt tương xứng với mức độ, hành vi và vai trò của bị cáo [4]. Đánh giá vai trò, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét về vai trò của các bị cáo: Bị cáo Dương Hồng L là người có ý thức nhờ H mua ma túy về bán lại cho các bị cáo khác nhằm mục đích kiếm lời số tiền 100.000 đồng đây là hành vi nguy hiểm, thể hiện sự liều lĩnh coi tH pháp luật của bị cáo nên cần phải lên một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo Nguyễn Thế Th và Dương Hồng Th có nhân thân xấu, các bị cáo đã một lần bị Tòa án đưa ra xét xử về tội trộm cắp tài sản, các bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, Bị cáo Th và Đ đã một lần bị Tòa án đưa vào cai nghiện bắt buộc nhưng không từ bỏ được ma túy, trong vụ án này cùng tham gia tàng trữ ma túy để sử dụng nên phải áp dụng hình phạt nghiêm hơn bị cáo bị cáo H . Tuy nhiên bị cáo Nguyễn Thế Th có bố mẹ được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên xem xét giảm nhẹ một phàn hình phạt cho bị cáo.

Hồ Sỹ H có bố mẹ là dân công hỏa tuyến được nhà nước chứng nhận, tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; các bị cáo Th và H sẽ được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ này khi lượng hình.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Dương Hồng L , Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Nguyễn Thế Thọ, Hồ Sỹ H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình;

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm nào.

Xét thấy, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo. Mức án mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và nghiêm minh nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản. Gia đình các bị cáo thuộc diện hộ lao động bình tH , thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với các bị cáo.

[6]. Đối với người đàn ông tên Nghệ ở xã Đại sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho H theo lời khai của H , do không biết rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên không thể xử lý trong vụ án này. Hội đồng không xem xét.

[7]. Về vật chứng:

- 01 (một) phong bì công văn Công an huyện Yên Thành, Nghệ An được niêm phong đúng quy định.

Xét thấy: 01 (một) phong bì niêm phong, bên trong đựng (02 viên) ma túy tổng hợp có khối lượng 0,205 gam và vỏ giấy 01 ( khối lượng 0,405 gam đã lấy 0,2 gam (02 viên) đi giám định và không hoàn lại); Đây là vật chứng bị Nhà nước cấm tàng trữ trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 4 màu xanh; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu đen; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo 1906 màu xanh; L quan đến việc mua bán và tàng trữ trái phép ma túy đề nghị tịch thu bán hóa giá sung công quỹ nhà nước . Số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) tịch thu của Dương Hồng L nhằm giao dịch mua bán ma túy cần sung công quỹ nhà nước là hợp lý. Số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) của Võ Hải Đ xét thấy chưa sử dụng vào việc mua ma túy nên cần trả lại cho Đăng.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Dương Hồng L 33( ba mươi ba ) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 14/11/2020.

-Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Dương Hồng Th 21( hai mốt ) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 14/11/2020.

-Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế Th 21( hai mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 13/11/2020.

-Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Võ Hải Đ 20( hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 14/11/2020.

-Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Sỹ H 12( mười hai ) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 14/11/2020.

- Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong, bên trong đựng (02 viên) ma túy tổng hợp có khối lượng 0,205 gam và vỏ giấy;

- Tịch thu bán hóa giá sung công quỹ nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 4 màu xanh; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu đen; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo 1906 màu xanh ( đã qua sử dụng).

- Sung công quỹ nhà nước số tiền 400.000đồng( có tại TK của Chi cục THADS huyện Yên Thành). Trả lại cho Võ Hải Đ số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).

(Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 19/02/2021 giữa Công an huyện Yên Thành và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành ).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban TH vụ Quốc Hội buộc các bị cáo Dương Hồng L , Dương Hồng Th , Võ Hải Đăng, Nguyễn Thế Thọ, Hồ Sỹ H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về