Bản án 27/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/TLST- HS ngày 27/3/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST-HS ngày 14/4/2021 đối với bị cáo:

Hà Quảng L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 25 tháng 02 năm 1972 tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 2/12; con ông Hà Quảng M (đã chết) và bà Hà Thị T, sinh năm 1944; anh, chị, em ruột: Có 10 anh chị em, bị cáo là thứ ba; vợ Đỗ Thị B, sinh năm 1974; con: Có 01 con, sinh năm 1995.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51 ngày 11/02/2020 của Công an huyện C phạt 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong ngày 19/5/2020.

Nhân thân: Bản án số 90/STHS ngày 06/10/1998 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 15 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 01/4/2010.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 17/12/2020, Hà Quảng L, sinh năm 1972, trú tại: Thôn N, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang một mình đi xe ô tô khách đến huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên mục đích tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến bến xe khách, L xuống xe đi bộ khoảng 100 m gặp một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện ma túy đang đứng một mình cạnh đường, L hỏi mua được 01 gói, được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ có chữ, số bên trong có 04 gói nhỏ, trong đó: 03 gói nhỏ được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ có chữ, số và 01 gói được gói bằng hai lớp giấy bạc màu vàng trong cùng cả 04 gói là Heroine vón cục màu trắng với số tiền 2.000.000 đồng. Mua được Heroine L đi vào chỗ vắng người lấy 01 gói nhỏ Heroine san ra một ít sử dụng hết bằng cách đốt hít vào cơ thể, số còn lại gói lại như cũ cất giấu trong túi áo khoác bên phải đang mặc. Sau đó L đi xe ô tô khách về xã B1, huyện C1, tỉnh Bắc Kạn rồi đi xe ôm của người không quen biết về đến nhà khoảng 20 giờ cùng ngày.

Sáng ngày 18/12/2020, L mang theo toàn bộ số Heroine đã mua được từ hôm trước đi nhờ xe mô tô của người đi đường không quen biết đến xã N1chơi. Khoảng 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến thôn Khun Trại, xã P, huyện C, tỉnh Tuyên Quang, L xuống xe đi bộ vào chỗ vắng người để tìm vị trí sử dụng Heroine thì bị tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã P, huyện C phát hiện, nghi L tàng trữ trái phép chất ma túy nên mời L về Ủy ban nhân dân xã P làm việc, tại đây L tự giác giao nộp toàn bộ số Heroine và khai nhận cất giấu nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tôi quả tang, niêm phong gói Heroine L giao nộp để giám định.

Biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy ngày 18/12/2020, tại Công an huyện C đối với Hà Quảng L, kết quả: (+) dương tính với chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 20/GĐKTHS ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy (loại Heroine), khối lượng 1,401g (Một phảy bốn không một gam).

Cáo trạng số: 24/CT-VKSCH ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang truy tố Hà Quảng L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Quảng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hà Quảng L từ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng đến 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 18/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Hà Quảng L, được niêm phong có chữ ký xác nhận và có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Đối với người đàn ông bán Heroine cho Hà Quảng L do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để đề nghị xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hà Quảng L, Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Hà Quảng L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 18/12/2020 bị cáo Hà Quảng L đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,401g (Một phảy bốn không một gam) Heroine, mục đích để sử dụng, đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân xấu, năm 1998 Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 15 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo có 01 tiền sự, năm 2020 bị Công an huyện C, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù đã bị xử lý nhiều lần về hành vi liên quan đến ma túy nhưng bị cáo không coi đó là bài học mà còn mà tiếp tục vi phạm nên cần áp dụng khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn” theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Hà Quảng L xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Hà Quảng L, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, do vậy không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hà Quảng L, Công an huyện C đã ra Quyết định xử phạt hành chính nên không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38, các Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 106, 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Hà Quảng L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt Hà Quảng L 01 (một) năm 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 18/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Hà Quảng L trong 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Hà Quảng L, thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi tang vật Hà Quảng L giám định ngày 18/12/2020.

Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/3/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

Về án phí: Bị cáo Hà Quảng L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 27/4/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 27/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về