Bản án 27/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cà Thị P; tên gọi khác: Không; sinh năm 1969; tại huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: Không; con ông: Cà Văn Ơ, đã chết và con bà: Quàng Thị N, sinh năm 1936; bị cáo chồng là Quàng Văn P; sinh năm 1966 và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 11/11/2020 và bị tạm giam từ ngày 11/11/2020 cho đến nay; bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Quàng Văn P; tên gọi khác: Không; sinh ngày 20/8/1966; tại huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: Lớp 6/12; con ông: Quàng Văn M, sinh năm 1940 và con bà: Lò Thị Á, sinh năm 1938; bị cáo có vợ là Cà Thị P; sinh năm 1969 và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền sự:

Không; tiền án: Không; nhân thân bị cáo: năm 2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 07 năm tù về tội chiếm đoạt chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/11/2020 đến ngày 11/11/2020 và bị tạm giam từ ngày 11/11/2020 cho đến nay;

bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Quàng Văn T; sinh năm 1979; trú tại: bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo Cà Thị Piu: Bà Hoàng Thị P; sinh năm 1964; trú tại: Bản C, thị trấn T; huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00 phút ngày 07/11/2020, Cà Thị P đang ở nhà ở bản P, xã N, huyện T thì có Quàng Văn T trú cùng bản (Là cháu ruột của P) đến nhà chơi. P có đặt vấn đề hỏi T “Có biết chỗ nào bán Heroine không, mua cho bác một ít?”; T đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T quay lại nhà P và đưa cho P 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 cục bột màu trắng, P biết đó là Heroine. Qua trao đổi T bán số Heroine cho P với giá 3.000.000đ, P đồng ý và đã trả cho T 3.000.000đ. T cầm tiền từ P và đi ra ngoài; việc trao đổi mua bán Heroine chỉ có hai người biết, không ai tham gia cùng, việc trao đổi diễn ra tại khu vực giường ngủ nhà P. Sau khi mua được Heroine, P đã dùng dao lam có sẵn trong nhà cắt chia cục Heroine thành 51 phần và dùng các mảnh nilon gói lại. Sau khi gói xong P cho toàn bộ 51 gói Heroine vào một túi nilon màu hồng và cho vào một vỏ gói thuốc lào mang cất giấu ở khu vực bụi cây cạnh bờ rào trong vườn nhà P. Đến khoảng 08 giờ 45 phút ngày 08/11/2020, P đi xuống chỗ cất giấu Heroine lấy ra 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng mang lên nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang thu giữ. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của P, qua khám xét thu giữ trong túi áo khoác bên phải màu đen để ở ghế ngồi khu vực bàn uống nước nhà P có 01 gói Heroine, qua xác định đó là gói Heroin của Quàng Văn P, sinh năm 1966 là chồng của P cất giấu để sử dụng; đồng thời khám xét phát hiện thu giữ trong bụi cây cạnh bờ rào trong vườn nhà P có 01 vỏ gói thuốc lào bên trong đựng gói nilon màu hồng, mở bên trong túi nilon màu hồng có 50 gói Heroine. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội, niêm phong vật chứng trong đó có 31 gói nghi bên trong có Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng; 17 gói nghi bên trong có Heroine được gói bằng túi nilon màu xanh; 03 gói nghi bên trong có Heroine được gói bằng túi nilon màu vàng) và 01 gói nghi bên trong có Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng; tạm giữ của Cà Thị P số tiền 1.600.000đ; 01 chiếc áo màu đen đã cũ của P. Bị cáo và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở các gói niêm phong có sự chứng kiến của các bị cáo: Đối với 01 gói nghi Heroine thu giữ (P ném xuống đất) của bị cáo P được xác định khối lượng 0,1 gam và gửi toàn bộ 0,1 gam làm mẫu vật gửi giám định; đối với 50 gói nghi Heroine thu giữ của bị cáo P xác định khối lượng 5,61 gam và trích 0,27 gam làm mẫu vật gửi giám định. Đối với 01 gói nghi Heroine thu giữ của bị cáo P xác định khối lượng 0,15 gam và trích 0,02 gam làm mẫu vật gửi giám định.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 137 ngày 12/11/2020 mẫu chất bột nghi Heroine thu giữ của P; Tại bản Kết luận giám định số: 992/GĐ-PC09 ngày 18/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 138 ngày 12/11/2020. Tại bản Kết luận giám định số: 991/GĐ-PC09 ngày 18/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 02 Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Thị P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 10/CT-VKS-TG ngày 22 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Quàng Văn P về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và truy tố bị cáo Cà Thị P về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo P từ 15 tháng đến 18 tháng tù; áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo P từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tuyên tịch thu tuyên tiêu 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Cà Thị P, sinh năm 1969, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; có khối lượng 5,34 gam và 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Quàng Văn P, sinh năm 1966, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; có khối lượng 0,13 gam. Trả lại Quàng Văn P 01 chiếc áo đen đã cũ và trả lại Cà Thị P số tiền 1.600.000đ do không liên quan đến hành vi phạm tội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Cà Thị P nhận phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị cáo Quàng Văn P nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Đối với bị cáo Cà Thị P: Bị cáo P đã thừa nhận bị cáo đã mua ma túy của Quàng Văn T là người trú cùng bản (Là cháu ruột của P) 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 cục bột màu trắng, P biết đó là Heroine, với giá 3.000.000đ. Việc trao đổi mua bán Heroine chỉ có hai người biết, không ai tham gia cùng, việc trao đổi diễn ra tại khu vực giường ngủ nhà P vào hồi 23 giờ ngày 07/11/2020. Sau khi mua được Heroine, P đã dùng dao lam có sẵn trong nhà cắt chia cục Heroine thành 51 phần và dùng các mảnh nilon gói lại. Sau khi gói xong P cho toàn bộ 51 gói Heroine vào một túi nilon màu hồng và cho vào một vỏ gói thuốc lào mang cất giấu ở khu vực bụi cây cạnh bờ rào trong vườn nhà P. Đến khoảng 08 giờ 45 phút ngày 08/11/2020, P đi xuống chỗ cất giấu Heroine lấy ra 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng mang lên nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang thu giữ và quá trình khám xét nơi ở của P thu giữ được 50 gói Heroine.

Đối với hành vi của bị cáo Quàng Văn P: Bị cáo Pâng đã thừa nhận, vào ngày 07/11/2020, có Quàng Văn T là cháu của P lên chơi; việc P và T có nói chuyện, trao đổi với nhau P không biết, chỉ khi T về P lên nhà thì thấy ở trên bàn có những mảnh vụn, P nghĩ là Heroine nên đã gom những mảnh vụn đó và cho vào túi nilon màu trắng gói lại cất giấu trong túi áo đang mặc rồi cởi áo ra vắt ở ghế gần bàn uống nước và đi ngủ. Bị cáo thừa nhận số Heroine đó bị cáo cất giấu nhằm mục đích để sử dụng.

Khi tổ công tác phát hiện hành vi phạm tội, đã lập biên bản bắt người phạm tội, niêm phong vật chứng, các bị cáo đều ký nhận biên bản. Khi tiến hành mở niêm phong vật chứng thu giữ để xác định khối lượng các bị cáo đều được chứng kiến. Bị cáo P xác nhận khối lượng thu giữ của bị cáo 51 gói Heroine có tổng cộng khối lượng là 5,71 gam, bị cáo P tàng trữ ma túy có mục đích bán lẻ kiếm lời. Bị cáo P xác nhận khối lượng thu giữ của bị cáo 01 gói Heroine có khối lượng là 0,15 gam, bị cáo P tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng. Qua lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; do đó hành vi của các bị cáo có đủ cơ sở kết luận bị cáo P đã có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo P đã có hành vi Tàng trữ trái phép ma túy được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất phạm tội của bị cáo Piu là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất phạm tội của bị cáo P là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với các bị cáo:

Đối với bị cáo Cà Thị P: Khối lượng Heroine bị thu giữ của bị cáo là 5,71 gam nằm trong khoảng từ 05 gam đến dưới 30 gam; bị cáo tàng trữ có mục đích bán lẻ kiếm lời; bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm i khoản 2 Điều 251 BLHS có mức hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù.

Đối với bị cáo Quàng Văn P: Khối lượng Heroine bị thu giữ của bị cáo là 0,15 gam nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; bị cáo tàng trữ với mục đích sử dụng; bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

[4.1] Bị cáo Cà Thị P sinh ra và lớn lên tại xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; bị cáo không đi học mà chỉ ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 1985 kết hôn với Quàng Văn P. Đến ngày 10/11/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong những năm qua Nhà nước đã tốn sức người, sức của để phòng chống tệ nạn ma túy; những cuộc tuyên truyền về tác hại ma túy đã được đến với người dân, bản thân bị cáo cũng thừa nhận mình đã được tiếp cận từ những cuộc tuyên truyền đó và hiểu rõ tác hại của ma túy. Chỉ vì suy nghĩ nông cạn, ham lợi nhuận, muốn có tiền dễ dàng nhanh chóng nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[4.2] Bị cáo Quàng Văn P sinh ra và lớn lên tại xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; được bố mẹ nuôi dưỡng cho học hết lớp 12/12, sau đó được gia đình cho học hết lớp 6 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 1985 kết hôn với chị Cà Thị P. Ngày 29/8/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử tù có thời hạn 07 năm về tội chiếm đoạt chất ma túy. Đến ngày 10/11/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo bị khởi tố về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cái; bị cáo có bố đẻ Quàng Văn M được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Là người chồng, người cha trong gia đình lẽ ra phải là tấm gương cho con cháu, hơn nữa bị cáo đã một lần được tiếp thu cải tạo, giáo dục của pháp luật nhưng không lấy đó làm bài học rèn luyện để thay đổi bản thân, cùng gia đình làm ăn kinh tế nuôi dạy con cháu mà còn có hành vi vi phạm pháp luật, hơn nữa bị cáo còn nghiện ma túy, bị cáo là người có nhân thân xấu. Qua hành vi của bị cáo thấy rằng bị cáo coi thường pháp luật, thiếu ý thức rèn luyện. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Theo khoản 5 Điều 251 BLHS quy định; bị cáo P còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Theo khoản 5 Điều 249 BLHS quy định; bị cáo Pâng còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Cà Thị P từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù và bị cáo Quàng Văn P từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đối với Quàng Văn Thời là người mà bị cáo P khai đã bán heroine cho P vào ngày 07/11/2020, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau; do đó HĐXX không xem xét.

[8] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Cần tịch thu tuyên hủy 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Cà Thị P, sinh năm 1969, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; Công an huyện Tuần Giáo có khối lượng 5,34 gam (năm phẩy ba mươi bốn gam) và 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Quàng Văn P, sinh năm 1966, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; có khối lượng 0,13 gam (không phẩy mười ba gam). Trả lại Quàng Văn P 01 chiếc áo đen đã cũ và trả lại Cà Thị P số tiền 1.600.000đ do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và các bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên các bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Các bị cáo không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cà Thị P.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Quàng Văn P.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với các bị cáo, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Cà Thị P phạm tội: Mua bán trái phép chất ma Tuyên bố bị cáo Quàng Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Cà Thị P 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời gian thi hành án phạt tù tính từ ngày 08/11/2020.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn P 15 (Mười lăm) tháng tù; thời gian thi hành án phạt tù tính từ ngày 08/11/2020.

3. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Cà Thị P, sinh năm 1969, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ hồi 09 giờ 15 phút và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo khám xét, thu giữ hồi 12 giờ 55 phút ngày 08/11/2020, tại nhà Cà Thị P, sinh năm 1969, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên, khối lượng 5,34 (năm phẩy ba mươi bốn gam) chất bột màu trắng nghi Heroine (M2B). Mặt sau gói niêm phong trên mép dán có các chữ ký giáp lai họ tên của Lò Văn D, Lường Văn Đ, Lường Văn D, Lường Văn B; điểm chỉ ngón trỏ phải của Cà Thị P và in hai hình dấu niêm phong của Công an huyện Tuần Giáo, bên ngoài gói niêm phong được dán kính bằng một lớp nilon màu trắng trong suốt (Chất bột màu trắng là Heroine theo kết luận giám định số 991/GĐ-PC09 ngày 18/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên) và 01 phong bì niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vật chứng còn lại vụ Quàng Văn P, sinh năm 1966, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; Công an huyện Tuần Giáo khám xét, thu giữ hồi 10 giờ 55 phút ngày 08/11/2020, tại nhà Cà Thị P, sinh năm 1969, trú tại bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên, khối lượng 0,13 (không phẩy mười ba gam) chất bột màu trắng nghi Heroine. Mặt sau gói niêm phong trên mép dán có các chữ ký giáp lai họ tên của Lò Văn D, Lường Văn Đ, Phạm Minh H, Nguyễn Văn Đ, Quàng Văn P; điểm chỉ ngón trỏ phải của Cà Thị P và in hai hình dấu niêm phong của Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; bên ngoài gói niêm phong được dán kính bằng một lớp nilon màu trắng trong suốt (Chất bột màu trắng là Heroine theo kết luận giám định số 992/GĐ-PC09 ngày 18/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên. Trả lại Quàng Văn Pâng 01 chiếc áo đen đã cũ và trả lại Cà Thị Piu số tiền 1.600.000đ. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/01/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Các bị cáo Cà Thị P, Quàng Văn P được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Cà Thị P, Quàng Văn P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 03/3/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về