Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 204/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Lê D, sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ 02, thị trấn LT, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Chị Trần Thị G, sinh năm 1985 Địa chỉ: Tổ 02, thị trấn LT, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

(Anh Nguyễn Lê D có mặt, chị Trần Thị G vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/7/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn anh Nguyễn Lê D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Lê D và chị Trần Thị G chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn LT, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó hai người thường xuyên xảy ra mâu thuân. Nguyên nhân của mâu thuẫn là do anh D đi làm ăn xa, chị G ở nhà tự kinh doanh buôn bán nhưng vay nợ tiền rất nhiều. Anh D có vay tiền để trả nợ cho chị G vài lần nhưng chị G muốn anh D vay mượn tiền nhiều hơn nên anh D không đồng ý nên chị G đã tự ý bỏ nhà đi từ tháng 6/2016 cho đến nay. Từ khi chị G bỏ nhà đi anh D không có tin tức gì của chị G, cũng không biết đi đâu, ở đâu và làm gì nên anh D đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chị G mất tích tại quyết định số 22/2020/ QĐST- DS ngày 01/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Nay tình cảm vợ chồng không còn do vậy anh Nguyễn Lê D yêu cầu giải quyết được ly hôn với chị Trần Thị G.

Về con chung: Anh Nguyễn Lê D trình bày quá trình chung sống anh và chị Trần Thị G không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Lê D trình bày anh và chị Trần Thị G không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh Nguyễn Lê D trình bày anh và chị Trần Thị G không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện B đã triệp tập hợp lệ chị Trần Thị G nhiều lần để làm việc về nội dung khởi kiện của anh D nhưng chị G đều vắng mặt không có lý do nên không có lời khai nào.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 19/02/2021 nhưng không được.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do.

Kết thúc phần tranh luận, Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh Nguyễn Lê D và chị Trần Thị G được ly hôn. Về con chung, về tài sản chung, nợ chung không xem xét, về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn chị Trần Thị G đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

II. Về nội dung vụ án:

{1} Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Lê D và chị Trần Thị G chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn LT, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó hai người thường xuyên xảy ra mâu thuân. Nguyên nhân của mâu thuẫn là do anh D đi làm ăn xa, chị G ở nhà tự kinh doanh buôn bán nhưng vay nợ tiền rất nhiều. Anh D có vay tiền để trả nợ cho chị G vài lần nhưng chị G muốn anh D vay mượn tiền nhiều hơn nên anh D không đồng ý nên chị G đã tự ý bỏ nhà đi từ tháng 6/2016 cho đến nay. Từ khi chị G bỏ nhà đi anh D không có tin tức gì của chị G, cũng không biết đi đâu, ở đâu và làm gì nên anh D đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chị G mất tích tại quyết định số 22/2020/ QĐST- DS ngày 01/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Từ ngày 01/7/2020 đến nay chị G cũng không có mặt tại địa phương. Nay tình cảm vợ chồng không còn, anh D yêu cầu được giải quyết ly hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị Trần Thị G không có mặt nên hòa giải không thành. Tại phiên tòa anh Nguyễn Lê D kiên quyết yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị G, còn chị Trần Thị G cho đến hiện nay vẫn không có tin tức gì và cũng không có mặt tại địa phương. Xét thấy hôn nhân đã có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, hai người đã không còn nắm bắt thông tin gì được của nhau, không hàn gắn tình cảm được nên cần căn cứ vào Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử anh Nguyễn Lê D và chị Trần Thị G được ly hôn là có căn cứ và đúng pháp luật.

{2} Về con chung: Xét lời khai của anh Nguyễn Lê D quá trình chung sống anh D và chị Trần Thị G không có con chung nào nên không xem xét giải quyết.

{3} Về tài sản chung: Anh Nguyễn Lê D trình bày quá trình chung sống anh và chị Trần Thị G không có tài sản chung và không có yêu cầu giải quyết do vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{4} Về nợ chung: Anh Nguyễn Lê D trình bày quá trình chung sống anh và chị Trần Thị G không có nợ chung nên không có yêu cầu gì do vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến.

{5} Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đây là vụ án không có giá ngạch, cần buộc anh Nguyễn Lê D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 5, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Lê D đối với chị Trần Thị G về việc “Xin ly hôn”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Lê D và chị Trần Thị G được ly hôn.

2. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Lê D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh Nguyễn Lê D đã nộp tại biên lai nộp tiền số 0004623 ngày 20/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về