Bản án 27/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 4năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lý Hữu L, Sinh năm 1991. Đăng ký thường trú: số 119, đường H, khóm 4, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Lý Kim T (chết) và bà: Trịnh Thị T; sinh năm: 1973. Vợ, con: chưa có. Anh, chị em ruột: có 02 người kể cả bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1995. Tiền án: 02 tiền án: Lần thứ nhất: Ngày 13/8/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt 01 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 25/6/2019; Lần thứ hai: Vào ngày 07/01/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án ngày 26/02/2020. Tiền sự: không. Bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam công an tỉnh Sóc Trăng từ ngày 26/02/2020. (có mặt)

- Người bị hại:

1/ Lý Văn H, sinh năm 1961; Địa chỉ: Số 25, đường B, khóm 1, phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

2/ Diệp V, sinh năm 1982; Địa chỉ: số 437/37A đưng Q 1A, Khóm 5, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Danh Chí E, sinh năm 1985; Địa chỉ: Số 76/11 đường M, khóm 3, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Hữu L là người có hai lần tiền án, cụ thể: Lần thứ nhất: Vào ngày 13 tháng 8 năm 2018 bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng xử phạt một năm tù về Tội trộm cắp tài sản; lần thứ hai: vào ngày 07 tháng 01 năm 2020 bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản, phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm”.

Vào khoảng 23 giờ, ngày 12 tháng 02 năm 2020 L một mình điều khiển xe đạp lưu thông trên các tuyến đường trên địa bàn thành phố S. Khi đến trước nhà số 25 đường B, khóm 1, phường 2, thành phố S thì L thấy nhà mở cửa, L quan sát bên trong khu vực phòng khách thì thấy ông Lê Văn H đang nằm ngủ trên ghế và trên bàn gần đó ông H có để một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max 64GB màu xanh đen có gắn ốp lưng bằng nhựa dẻo trong suốt phía sau và một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus 128GB màu đen. L quan sát xung quanh thì không thấy có người trông giữ điện thoại nên nảy sinh ý định lấy trộm. L dựng xe đạp khu vực trước cửa nhà của ông H rồi đi vào bên trong nhà chổ để điện thoại dùng tay lấy trộm, lấy xong L bỏ đi ra ngoài lấy xe rồi điều khiển xe đi về nhà số 119 đường H, khóm 4, phường 3, thành phố S cất giấu điện thoại.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL.ĐGTS, ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố S kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max 64GB màu xanh đen, đã qua sử dụng có giá 30.591.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus 128GB màu đen, đã qua sử dụng có giá 8.392.000 đồng; 01 (một) ốp lưng bằng nhựa dẻo trong suốt, đã qua sử dụng có giá 45.000 đồng; tổng tài sản có giá 39.028.000 đồng.

Ngoài lần chiếm đoạt tài sản này, bị cáo còn chiếm đoạt tài sản của người khác, cụ thể:

Vào khoảng 04 giờ, ngày 14 tháng 02 năm 2020 L một mình điều khiển xe đạp lưu thông trên đường Q 1A theo hướng từ bến xe Trà Men về Trà Tim. Khi đến nhà số 437/37A đường Q 1A, khóm 5, phường 2, thành phố S của bà Diệp V (Ly) thì L phát hiện một chiếc xe điện thăng bằng có võ bằng nhựa màu đỏ kích thước 80 x 30 cm để trong khuôn viên hàng rào nhà, L quan sát xung quanh thì thấy không có người trông giữ nên nảy sinh ý định lấy trộm. L nhặt một khúc tre và một cây compa ở gần đó rồi lấy băng keo đã chuẩn bị sẵn quấn compa vào một đầu của khúc tre, quấn xong L đưa khúc tre phần đầu có quấn compa vào bên trong hàng rào mốc xe điện thăng bằng ra ngoài hàng rào rồi dùng tay nâng chiếc xe lên khỏi hàng rào và lấy xe ra bên ngoài. L lấy xe điện thăng bằng để trên yên sau xe đạp rồi điều khiển xe đi về nhà số 119 đường H, khóm 4, phường 3, thành phố S cất giấu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL.ĐGTS, ngày 26 tháng 02 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố S kết luận: 01 (một) xe điện thăng bằng không rõ nhãn hiệu, võ nhựa màu đỏ, hai bánh xe màu đen, kích thước 80 x 30 cm, đã qua sử dụng, có giá 3.360.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKS.TPST ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Lý Hữu L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bố bị cáo Lý Hữu L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lý Hữu L; đề nghị xử phạt bị cáo L từ 03 năm đến 04 năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm 06 tháng tù tại Bản án số 02/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố S.

Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra xem xét Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy: 01(một) đoạn tre khô dài 1,8 mét, có một đầu gắn một cây compa, bằng băng keo màu đen.

Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với việc vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời kH làm rõ trong hồ sơ vụ án, xét thấy không trở ngại đến việc bồi thường thiệt hại, tính quyết định hình phạt. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với những người này.

[3].Tại phiên tòa bị cáo Lý Hữu L khai nhận: Vì muốn có tiền phục vụ cho nhu cầu cá nhân bị cáo đã H lần lét lút chiếm đoạt tài sản của người khác: Lần thứ nhất, vào khoảng 23 giờ, ngày 12/02/2020, bị cáo vào nhà số 25 đường B, Phường 2, bị cáo vào thấy người bị hại đang ngủ trên ghế so pha bị cáo thấy có để H điện thoại, bị cáo lấy điện thoại Iphone 11 Pro Max, Iphone 7 Plus, qua định giá tài sản có tổng giá trị 39.028.000 đồng; lần thứ H: Vào khoảng 04 giờ ngày 14 tháng 02 năm 2020, bị cáo vào nhà số 437/37A, đường Q 1A, Khóm 5, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo phát hiện chiếc xe điện thăng bằng, bị cáo quan sát không thấy ai, bị cáo lấy khúc tre và đoạn compa gần đó, bị cáo lấy tài sản, qua định giá tài sản chiếm đoạt là 3.360.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Bị cáo lén lút lấy chiếm đoạt tài sản của người khác có tổng giá trị là 42.388.000 đồng. Bị cáo đã bị kết án tại Bản án số 02/2020/HS- ST ngày 07/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, được xác định là tái phạm, lần này phạm tội do cố ý nên bị cáo phạm tội thuộc tình tiết định khung: “Tái phạm nguy hiểm”. Nên Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lý Hữu L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Đối với bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng: Bị cáo thực hiện 02 lần chiếm đoạt tài sản, mỗi lần giá trị tài sản từ trên 02 triệu đồng nên phạm tội từ 02 lần trở lên. Đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự cần áp dụng để tăng nặng một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5]. Xét các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn kH báo; Tài sản được thu hổi trả lại cho người bị hại nên phạm tôi nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h,s khoản 1Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]. Bị cáo bị kết án tại Bản án số 02/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, đang chấp hành án ngày 26/02/2020, nên căn cứ vào khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[7].Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8]. Xử lý vật chứng: Đối vói vật chứng là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy: 01(một) đoạn tre khô dài 1,8 mét, có một đầu gắn một cây compa, bằng băng keo màu đen.

[9]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ, về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức án khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[10].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm g Khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Khoản 2 Điều 56; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.Tuyên bố: Bị cáo Lý Hữu L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

2. Xử phạt bị cáo Lý Hữu L 03 (ba) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án số 02/2020/HS-ST ngày 07/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố S, buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của cả hai bản án là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2020.

3. Trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01(một) đoạn tre khô dài 1,8 mét, có một đầu gắn một cây compa, bằng băng keo màu đen.

5. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo, người bị hại được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại, người có quyền lợi, ngĩa vụ liên quan vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về