Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

 BẢN ÁN 27/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2020/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Thôn D, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

2. Bị đơn: Anh Hà Văn H1 (tức Hà Quang H1), sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn D, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28/12/2019 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị kết hôn với anh Hà Văn H1 (Hà Quang H1) ngày 11/02/2000 trước khi cưới có tìm hiểu, cưới có đăng ký tại UBND xã V sau khi cưới chị về làm dâu và ở cùng với gia đình anh H1. Tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường, trong quá trình chung sống do anh H1 hay chơi cờ bạc nợ nhiều sau đó không có tiền trả nên vợ chồng sẩy ra cãi nhau. Đến tháng 12/2019 vợ chồng lại mâu thuẫn nguyên nhân do anh H1 đòi bán nhà đất nên chị nói với anh H1 “nếu bán nhà đất thì vợ chồng sẽ ly hôn”, anh H1 đồng ý sau đó anh chị bán nhà đất và chia đôi mỗi người một nửa số tiền bán nhà đất. Vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ đó mỗi người một nơi, mẹ con chị đi ở nhờ nhà anh Nguyễn Văn B (anh trai chị), anh H1 đi ở nhờ nhà ông Toàn (hàng xóm) được thời gian ngắn sau đó anh H1 đi đâu chị không biết, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn với anh H1.

Tại phiên toà bị đơn anh Hà Văn H1 vắng mặt nhưng tại bản tự khai ngày 08/01/2020, biên bản hoà giải ngày 18/02/2020, ngày 20/4/2020 anh H1 trình bày: Anh thừa nhận chị H trình bày đúng về điều kiện kết hôn và quá trình vợ chồng chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng làm ăn kinh tế bị thua lỗ và đã sống ly thân từ tháng 12/2019, nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn chị H xin ly hôn anh đồng ý.

Bà Lê Thị Ơ mẹ anh H1 cho biết trong quá trình chung sống do anh H1 hay chơi cờ bạc, nợ nhiều sau đó không có tiền trả nên vợ chồng sẩy ra cãi nhau. Bà và chị H khuyên anh nhiều lần nhưng anh không bỏ được việc chơi cờ bạc, bà đã phải bán nhà đất cho anh H1 tiền trả nợ cờ bạc. Anh H1 chị H có nhà đất nhưng đã bán năm 2019 và sống ly thân từ đó, nay bà đề nghị Toà án giải quyết cho chị H được ly hôn với anh H1.

Về con chung: Chị H anh H1 thừa nhận có 02 con chung là cháu Hà Mạnh H2, sinh ngày 23/11/2000, cháu Hà Huyền T, sinh ngày 27/7/2007 hiện nay đang ở với chị H. Ly hôn chị H anh H1 thoả thuận để chị H nuôi cháu T, chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung. Còn cháu H2 đã trưởng thành chị H anh H1 không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị H anh H1 thừa nhận có 01 ngôi nhà xây 02 tầng và khoảng 126m2 đất ở, anh chị đã bán tháng 12/2019 được 840.000.000đ và chia mỗi người một nửa tiền bán nhà đất, ly hôn anh chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ngoài ra có tài sản chị H anh H1 khai không thống nhất anh H1 khai: Năm 2009 vợ chồng đóng 01 chiếc tàu chở cát (xà lan), khoảng tháng 8/2014 chị H đã bán chiếc tàu được 800.000.000đ sau chị H đưa cho anh Hà Quang Trung (anh trai anh) 300.000.000đ để đầu tư mua xe ôtô làm ăn chung. Cuối năm 2014 do làm ăn không có lãi nên anh và anh Trung đã bán chiếc xe ôtô và anh Trung đưa cho chị H 250.000.000đ. Như vậy tiền bán tàu và bán xe ôtô tổng cộng 750.000.000đ chị H cầm sử dụng vào việc gì anh không biết, ly hôn anh yêu cầu chị H trả cho anh 1/2 số tiền trên, anh không vay mượn tiền của ai để đóng tàu đó là tài sản chung của vợ chồng.

Chị H khai: Năm 2009 vợ chồng đóng 01 chiếc tàu (xà lan) để chở cát, khi đóng có vay của Công ty H Hải do anh Nguyễn Văn B (anh trai chị) làm giám đốc 300.000.000đ, sau do làm ăn thua lỗ nên năm 2014 chị bán chiếc tàu cho ông Nguyễn Ngọc K được 800.000.000đ. Chị trả nợ cho Công ty của anh Ba là 300.000.000đ, đưa cho anh T (anh trai anh H1) tiền để đầu tư mua xe ôtô làm ăn nhưng do làm ăn không được anh T đã bán xe ôtô và đưa cho chị bao nhiêu tiền chị không nhớ. Số tiền còn lại chị sử dụng trả nợ và chi tiêu vào việc chung của gia đình gồm hai vợ chồng và các con từ năm 2014 đến nay hết rồi không còn đồng nào nữa. Như vậy tài sản chung giữa chị và anh H1 hiện nay không có gì, vợ chồng chỉ có tài sản duy nhất là ngôi nhà 02 tầng và đất ở thì đã bán tháng 12/2019 chia nhau mỗi người một nửa tiền bán nhà đất, anh H1 hiện nay không có mặt ở địa phương đi làm ăn ở đâu chị không biết. Nay chị đề nghị Toà án giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh H1 và việc giao nuôi con chung, còn về phần tài sản chung giữa chị và anh H1 không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản riêng: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 thừa nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ, đất canh tác, công sức: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và việc chấp hành pháp luật của các đương sự và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Hà Văn H1 (Hà Quang H1). Về con chung chị Nguyễn Thị H tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục cháu Hà Huyền T sinh ngày 27/7/2007 cho đến khi trưởng thành. Chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản riêng, công nợ, đất canh tác, công sức: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 không yêu cầu Toà án giải quyết. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng dân sự: Chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết việc hôn nhân của chị và anh H1 theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh chị đều có hộ khẩu thường trú tại xã V, huyện Vĩnh Tường nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Về sự vắng mặt của anh H1 đã có bản tự khai, trình bày ý kiến tại biên bản hoà giải vì vậy căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự anh chị đều có hộ khẩu thường trú tại xã V, huyện Vĩnh Tường Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn là anh H1.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Năm 2000 chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Hà Văn H1 trên cơ sở tự nguyện, trước khi cưới có tìm hiểu có đăng ký kết hôn là cuộc hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nên đã có hai con chung, quá trình chung sống do anh H1 chơi cờ bạc nợ nần nhiều không có tiền trả, mặt khác do vợ chồng làm ăn kinh tế bị thua lỗ nên sảy ra mâu thuẫn (bà Ơn mẹ anh H1 cũng thừa nhận) và đã sống ly thân từ tháng 12/2019, từ khi ly thân đến nay 2 bên không thăm hỏi quan tâm gì đến nhau nữa. Điều đó chứng tỏ rằng tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn, anh H1 nhất trí. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị H được ly hôn với anh H1 là phù hợp.

[2]. Về con chung: Chị H anh H1 có 02 con chung là cháu H2 và cháu T nay hai cháu đang ở với chị H, ly hôn anh chị thoả thuận chị H nuôi cháu T và nguyện vọng của cháu T xin được ở với chị H. Chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy giao cho chị H nuôi cháu T là phù hợp. Còn cháu H2 đã trưởng thành anh chị không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về tài sản chung: Chị H anh H1 thừa nhận có 01 ngôi nhà 02 tầng trên khoảng 126m2 đất ở, nhưng anh chị đã bán từ tháng 12/2019 được 840.000.000đ và chia mỗi người một nửa số tiền bán nhà đất, ly hôn anh chị không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quá trình hoà giải và làm việc tại toà anh H1 yêu cầu chị H thanh toán cho anh 1/2 số tiền bán 01 chiếc tàu (xà lan) và tiền bán xe ôtô tổng cộng 750.000.000đ chị H không đồng ý vì, số tiền bán tàu chị trả nợ cho Công ty H Hải 300.000.000đ, số tiền còn lại chị đưa cho anh Trung (anh trai anh H1) để đầu tư mua xe ôtô làm ăn nhưng thua lỗ anh Trung trả lại chị sử dụng trả nợ, chi tiêu việc ăn học cho các con và công việc chung của gia đình từ năm 2014 đến nay không còn. Quá trình giải quyết Toà án đã báo gọi anh H1 nhiều lần đến để làm rõ số tiền bán tàu và bán xe ôtô nhưng anh H1 không đến làm việc. Mặt khác anh H1 cũng không có chứng cứ gì để chứng minh hiện số tiền trên còn và chị H đang quản lý. Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết về phần tài sản giữa chị và anh H1 nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]. Về tài sản riêng: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ, đất canh tác, công sức: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo bản án các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Hà Văn H1 (Hà Quang H1). Về con chung: Chị Nguyễn Thị H tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hà Huyền T, sinh ngày 27/7/2007 cho đến khi trưởng thành. Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu anh Hà Văn H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản riêng, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị Nguyễn Thị H anh Hà Văn H1 không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0004836 ngày 03/01/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường, chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hà Văn H1 (Hà Quang H1) vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:27/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về