Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 15/04/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 27/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 740/2019/TLST – HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2020/QĐST – HNGĐ ngày 25/3/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Dương Thị Mỹ N, sinh năm 1988.

Địa chỉ: khóm K, phường H, thành phố LX, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Phạm Minh M, sinh năm 1986.

Địa chỉ: khóm K, phường H, thành phố LX, tỉnh An Giang.

(Bà N có đơn xin vắng mặt; Ông M vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 24/10/2019 và và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Dương Thị Mỹ N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thị Mỹ N và ông Phạm Minh M thông qua mai mối và sau thời gian tìm hiểu đã đi đến hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H vào ngày 16/01/2007. Trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nguyên nhân do ông M thường xuyên vay mượn nợ, có người phụ nữ khác bên ngoài. Bà N đã nhiều lần khuyên can nhưng ông M vẫn không sửa đổi tính tình. Nay tình cảm vợ chồng không còn, thời gian ly thân đã lâu nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông M.

- Về quan hệ con chung: Bà N và ông M có 02 (hai) con chung tên Phạm Tấn P sinh ngày 21/11/2006 và Phạm Tấn Đ, sinh ngày 08/3/2016. Thời gian qua, bà N là người trực tiếp nuôi con nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Phạm Minh M không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến qua yêu cầu ly hôn của bà N và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Bà N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đề ngày 25/3/2020 lý do phải đi làm ăn xa nên không về dự tòa được. Ông M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bà N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt đề ngày 25/3/2020 lý do phải đi làm ăn xa nên không về dự tòa được. Ông M không có ý kiến trình bày và vắng mặt trong quá trình tố tụng; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà N và ông M là đúng theo qui định tại khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Dương Thị Mỹ N đối với ông Phạm Minh M.

Về con chung: Do các con chung của bà N và ông M là các cháu Phạm Tấn P sinh ngày 21/11/2006 và Phạm Tấn Đ, sinh ngày 08/3/2016 đang sống với bà N, cháu Phạm Tấn Đ còn nhỏ, cháu Phạm Tấn P có nguyện vọng được sống với mẹ. Để đảm bảo ổn định về tinh thần, đảm bảo về quyền lợi về mọi mặt cho các cháu, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà N. Về chi phí cấp dưỡng nuôi con: Do bà N không có yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi các con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung; Bị đơn ông M không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tranh chấp giữa bà Dương Thị Mỹ N và ông Phạm Minh M là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.

[1.2] Sau khi nhận được quyết định hoãn phiên tòa, bà N có đơn đề ngày 25/3/2020 nộp cho Tòa án với nội dung đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm ăn xa nên không về dự tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà N.

[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo qui định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời tiến hành thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của ông Phạm Minh M và được Công an phường H, thành phố LX cung cấp thông tin: “Ông Phạm Minh M, sinh năm 1986 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khóm K, phường H, thành phố LX, tỉnh An Giang”. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông M.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà N và ông M dựa trên cơ sở tự nguyện của đôi bên, có tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường H, thành phố LX, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16/MH/2007, quyển số 02/2006 ngày 16/01/2007 phù hợp với Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, bà N trình bày nguyên nhân mâu thuẫn xuất do ông M thường xuyên vay mượn nợ và có người phụ nữ khác bên ngoài. Tuy bà N đã nhiều lần khuyên can nhưng ông M vẫn không sữa đổi tính tình. Từ đó vợ chồng thiếu chia sẻ, cảm thông cho nhau, đời sống vợ chồng mâu thuẫn thời gian dài không hàn gắn được, đã ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nhận thấy hôn nhân không còn mang lại hạnh phúc nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông M. Xét thấy, mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân của bà N và ông M đã kéo dài một thời gian. Từ khi ly thân, vợ chồng không thường xuyên gặp gở, chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Dương Thị Mỹ N.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà N và ông M có 02 (Hai) con chung tên Phạm Tấn P sinh ngày 21/11/2006 và Phạm Tấn Đ, sinh ngày 08/3/2016. Từ khi vợ chông ly thân, bà N là người trực tiếp nuôi các con chung; Tại biên bản lấy lời khai con chung ngày 31/12/2019 thể hiện cháu Phạm Tấn P cũng có mong muốn được tiếp tục chung sống với mẹ. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tốt về thể chất, tinh thần cũng như đảm bảo cho việc học hành cho hai cháu là Tấn P và Tấn Đ, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà N, giao hai chon chung thưa thành niên của bà N và ông M là các cháu Phạm Tấn P, sinh ngày 21/11/2006 và Phạm Tấn Đ, sinh ngày 08/3/2016 cho bà N tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, đây là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, do bà N không có yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bà N và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông M được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông M cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về án phí sơ thẩm: Bà N phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

 Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228; Điều 238; Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và 83, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xét xử vắng mặt nguyên đơn bà Dương Thị Mỹ N và bị đơn ông Phạm Minh M.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị Mỹ N được ly hôn với ông Phạm Minh M.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Dương Thị Mỹ N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 (hai) con chung tên Phạm Tấn P, sinh ngày 21/11/2006 và Phạm Tấn Đ, sinh ngày 08/3/2016.

Ông M không phải cấp dưỡng nuôi con do bà N không có yêu cầu.

Bà N và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông M được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung. Việc nuôi con không cố định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Bà N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân sơ thẩm. Án phí được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005840 ngày 04/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố LX. Bà N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HNGĐ-ST ngày 15/04/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:27/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về