Bản án 27/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH H

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyn Đình N, sinh năm 1992

Nơi ĐKHKTT: Khu dân cư Q, phường T, thành phố C, tỉnh H; nơi ở hiện nay: Khu dân cư Q, phường T, thành phố C, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình H (đã chết) và bà Trần Thị H, sinh năm 1973; bị cáo là con duy nhất;

Tiền án: Không

Tiền sự: 01. Năm 2018, Nguyễn Đình N có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị Công an thị xã C (nay là thành phố C) ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định số 93/QĐ-XPVPHC ngày 07/02/2018 với hình thức phạt tiền. N đã chấp hành xong ngày 07/02/2018.

Nhân thân:

- Năm 2013, Nguyễn Đình N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” bị Tòa án nhân dân thành phố H xử 24 tháng tù tại Bản án số 94/2013/HSST ngày 01/7/2013. Ngày 02/7/2013, N chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm. Ngày 09/3/2015, N chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2019, đến ngày 13/01/2019 thì bị tạm giam tại Trại tạm giam K - Công an tỉnh H. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988

Địa chỉ: Khu dân cư G, phường T, thành phố C, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút ngày 11/01/2019, khi Nguyễn Đình N, sinh năm 1992, trú tại: Thôn Q, xã T, thị xã C (nay là khu dân cư Q, phường T, thành phố C), tỉnh H đang ở khu vực xã T, huyện N, tỉnh H thì nhận được điện thoại của T (là bạn xã hội của N) bảo “mày lấy hộ anh ít hàng tý anh sang chơi” (nghĩa là T bảo N đi mua ma túy, T sang sau rồi hai người cùng sử dụng), N bảo lấy thế nào thì T bảo lấy 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mỗi anh em nửa tiền (tức là mỗi người 150.000 đồng) và bảo N ứng trước cho T, khi gặp sẽ đưa phần tiền 150.000 đồng của T cho N. N đồng ý, hai người thống nhất, sau khi mua được ma túy, hẹn gặp nhau ở thôn T – thị xã C để tìm chỗ cùng sử dụng ma túy. Sau đó, N di bộ ra khu vực chợ R thuộc xã T, huyện N, tỉnh H gặp người thanh niên tên là R đang đứng ở đầu chợ. Gặp R, N đặt vấn đề mua ma túy với số tiền 300.000 đồng. R đồng ý, đưa cho N 01 gói túi ni lông màu trắng loại vỏ bao thuốc lá bên trong có chứa ma túy đá tương ứng với số tiền N đã mua. N cất túi ni lông trong chứa ma túy này vào túi áo khoác phía trong bên trái của N đang mặc rồi đi bộ ra đường QLA nhờ xe về ngã tư T – thị xã C. Hồi 15 giờ 15 phút cùng ngày, khi N đang đứng tại vỉa hè trước của nhà anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 ở thôn G, xã T, thị xã C (nay là khu dân cư G, phường T, thành phố C), tỉnh H chờ T đến cùng sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Thu giữ tại túi áo khoác phía trong bên trái N đang mặc 01 (một) túi ni lông màu trăng, dạng vỏ bao thuốc là, có kích thước (08 x 5,5 x 2,3)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục, N khai nhận là ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 81/KLGĐ-PC09 ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Đình N gửi đến giám định khối lượng là 0,151 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Đi với chiếc điện thoại N sử dụng để liên lạc với T quá trình đi từ xã Q, huyện N, tỉnh H về phường T, thành phố C, tỉnh H bị cáo đã đánh rơi mất, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã ra thông báo truy tìm vật chứng nhưng không truy tìm được.

Ti bản cáo trạng số 25/CT-VKS-CL ngày 26/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà:

Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm, bị cáo trình bày do nghiện ma túy nên bị cáo đã mua ma túy về sử dụng chung với T. Trong khi bị cáo mang ma túy đứng chờ T ở vỉa hè trước cửa nhà anh Nguyễn Văn T ở thôn G, xã T, thị xã C (nay là khu dân cư G, phường T, thành phố C), tỉnh H thì bị lực lượng công an thị xã C (nay là thành phố C) kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy đựng trong 01 túi nilon màu trắng dạng vỏ bao thuốc lá được giấu trong túi áo khoác phía bên trong bên trái N đang mặc. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đi diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/01/2019. Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho hủy bỏ số ma túy hoàn lại sau giám định là 0,088 gam, loại Methamphetamine và vỏ bao gói là mẫu vật hoàn lại sau giám định. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Đình N tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Vào hồi 15 giờ 15 phút, ngày 11/01/2019 tại thôn G, xã T, thị xã C (nay là khu dân cư G, phường T, thành phố C), tỉnh H, Nguyễn Đình N đã có hành vi cất giữ trái phép 0,151 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân và T sử dụng chung thì bị lực lượng Công an thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh H phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Hành vi nêu trên của Nguyễn Đình N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh H truy tố bị cáo N là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo trực tiếp mua ma túy về sử dụng không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn đe dọa nghiêm trọng đến an toàn trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý trực tiếp mua ma túy về cất giữ bất hợp pháp để sử dụng thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi của bị cáo đã góp phần làm cho tội phạm gia tăng, tiếp tay cho kẻ mua bán ma túy bất hợp pháp và làm mất trật tự an toàn xã hội. Ngày 01/7/2013, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, mặc dù đã được xóa án tích nhưng chứng tổ bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 07/2/2018, bị cáo bị xử lý hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Lẽ ra bị cáo phải tích cực sửa chữa lỗi lầm để thành người tốt nhưng bị cáo vẫn tiếp tục cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, chứng tỏ bị cáo chưa đoạn tuyệt được với quá khứ. Vì vậy cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo mục đích giáo dục, trừng trị bị cáo, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[4] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cũng xem xét tới các tình tiết giảm nhẹ như sau: Bị cáo chưa có tiền án; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, ăn năn hối lỗi đối với hành vi của mình. Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản Điều 51 Bộ luật luật hình sự. Do vậy cần chiếu cố giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về hình phạt bổ sung : Xét bị cáo là người nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không bán lại nhằm mục đích kiếm lời, không có thu nhập nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã C (nay là thành phố C) đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Đình N 01 túi nilon màu trắng dạng vỏ bao thuốc lá kích thước (08 x 5,5 x 2,3)cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục có tổng trọng lượng là 0,151 gam. Toàn bộ đựng trong phong bì niêm phong có đóng dấu của công an xã T(nay là phường T), công an thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh H. Sau khi giám định hoàn lại mẫu vật là 0,088 gam là loại Methamphetamine, gói bằng giấy trắng bên ngoài là túi nilon màu trắng và niêm phong trong 01 phong bì dán kín số 81/KLGĐ-PC09. Mặt sau của phong bì niêm phong mẫu vật có (03) dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H và các chữ ký niêm phong mẫu. (Toàn bộ vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh H đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/3/2019 giữa cơ quan điều tra Công an thành phố C và chi cục thi hành án dân sự thành phố C).

Đi với chiếc điện thoại và sim điện thoại N sử dụng để liên lạc với T quá trình đi từ xã Q, huyện N, tỉnh H về phường T, thành phố C, tỉnh H bị cáo đã đánh rơi mất, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã ra thông báo truy tìm vật chứng nhưng không truy tìm được nên không đặt ra xem xét.

[8] Trong vụ án này N khai mua ma túy của người thanh niên tên R không quen biết (không rõ nhân thân, lý lịch), qua điều tra chưa xác định được người đàn Đối với T là bạn quen biết của N, gọi điện rủ N mua ma túy về sử dụng chung, do N chỉ biết tên là T không rõ nhân thân, lý lịch, chiếc điện thoại và sim N dùng để liên lạc với T đã mất, N không nhớ số điện thoại của T. Qua điều tra chưa xác định được người đàn ông này là ai, ở đâu nên cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ và xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình N 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/01/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho hủy bỏ 0,088 gam là loại Methamphetamine, gói bằng giấy trắng bên ngoài là túi nilon màu trắng và niêm phong trong 01 phong bì dán kín số 81/KLGĐ-PC09. Mặt sau của phong bì niêm phong mẫu vật có (03) dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H và các chữ ký niêm phong mẫu (Vật chứng hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Hải D đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/3/2019 giữa cơ quan điều tra Công an thành phố C và chi cục Thi hành án dân sự thành phố C).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Đình N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hưng Yên - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về