Bản án 27/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2019/TLST-HS, ngày 29 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXXST- HS, ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Hồ Thị T; sinh năm 1961 tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T, sinh năm 1935 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1937; chồng là Lê Quang V, sinh năm 1957 và 04 con; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2017/HSST, ngày 28/9/2017 bị cáo Hồ Thị T bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Môi giới mại dâm”; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 01/9/2018, ngày 07/9/2018 chuyển sang tạm giam; đến ngày 29/11/2018 bị cáo được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Lữ Hạnh Tùng M, sinh năm 1983; địa chỉ: Khu phố B, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; nơi đăng ký HKTT: Xóm C, xã X, huyện T, tỉnh Nghệ An; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố D, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

3. Anh Tôn Thất Hoàng Nhật Q, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn 2, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

4. Anh Đoàn Văn H, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn C, xã Nh, huyện G, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

5. Ông Lê Quang V, sinh năm 1958; vắng mặt.

6. Anh Lê Quang C, sinh năm 1983; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn 2, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn U, sinh năm 1962; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

2. Chị Đoàn Thị T, sinh năm 1982; địa chỉ: Buôn Đ, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

3. Chị Lê Thị T, sinh năm 1981; vắng mặt.

4. Chị Trần Thị Hương L, sinh năm 1973; vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn 2, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.

5. Bà Võ Thị Kiều H, sinh năm 1969; địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 20 phút, ngày 31/8/2018 Tôn Thất Hoàng Nhật Q và Đoàn Văn H cùng nhau đi đến nhà nghỉ H, do Hồ Thị T làm chủ, thuộc thôn 02, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để hỏi mua dâm. Tại đây, Q hỏi T có gái bán dâm không, và nói T gọi cho hai gái bán dâm, đồng thời hỏi giá mua dâm 02 gái bán dâm là bao nhiêu, T nói là 800.000 đồng, Q đưa cho T 1.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền T nói Q vào phòng số 4, H vào phòng số 5 của nhà nghỉ đợi. Lúc này, T sử dụng điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim số 0949346048 và số, T dùng số gọi đến số điện thoại cho Nguyễn Văn U và nói “vào ăn sầu riêng, có khách quen cho hai trái, khách gọi hai gái bán dâm mà hiện tại chỉ gọi được một”, rồi T tiếp tục sử dụng sim số gọi đến số cho H là gái bán dâm và nói “có khác tới mua dâm, vô cô đi” thì H đồng ý. Nguyễn Văn U sau khi nghe điện thoại của T thì đang trên đường đi gặp M là gái bán dâm, M nói U chở M đến nhà nghỉ H. Đến nơi, T nói M vào phòng số 4 để bán dâm cho khách, M hỏi tiền mua dâm của khách ai lấy thì T nói là T đã lấy tiền. Cùng lúc này, H đến, T nói H vào phòng số 5 để bán dâm cho khách. Đến khoảng 22 giờ 45 phút cùng ngày, khi H và M đang bán dâm cho khách mua dâm thì bị Công an huyện Ea H’Leo phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ là 1.000.000 đồng; 01 điện thoại di động Nokia màu đen có gắn sim số 0949346048 và số 0961173524 của Hồ Thị T và 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen có gắn sim số 01679760136 của H.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường, do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo lập vào hồi 23 giờ ngày 31/8/2018 xác định: Hiện trường xảy ra sự việc là phòng số 4 và phòng số 5 nhà nghỉ H, địa chỉ tại thôn 02, xã E, huyện E, hai căn phòng nêu trên đều có kích thước 4m x 2,8m, tường xây bằng xi măng sơn matic, nền lát gạch men kích thước 40cm x 40cm; mái lợp tôn; trần la phông bằng nhựa; cửa chính làm bằng kim loại, một cánh có kích thước 2,2m x 01m; cửa sổ khung kim loại gắn kính, có kích thước 01m x 0,8m; trong mỗi phòng có 01 giường làm bằng gỗ, kích thước 1,6m x 02m; trên mỗi giường có 02 cái gối, 01 cái chăn, 01 tấm nệm có kích thước 1,6m x 02m.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 782 ngày 31/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Ea H’Leo, kết luận: Giá trị hai căn phòng mà Hồ Thị T dùng để chứa mại dâm ngày 31/8/2018 tại nhà nghỉ Hoài T là 83.185.000 đồng. Hai căn phòng trên là do Lê Quang V và Hồ Thị T xây dựng, việc T dùng hai căn phòng để chứa mại dâm, ông V không biết nên cần tịch thu ½ giá trị hai căn phòng.

Tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKS, ngày 24/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố đối với bị cáo Hồ Thị T về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo rút một phần quyết định truy tố sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hồ Thị T từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Môi giới mại dâm” tại Bản án hình sự 89/2017/HSST, ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2018 đến ngày 29/11/2018. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có gắn sim số 0949346048 và số 0961173524, tịch thu ½ giá trị hai căn phòng là 41.592.000 đồng của Hồ Thị T và 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen có gắn sim số 01679760136 của Nguyễn Thị H.

Bị cáo Hồ Thị T không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Trong quá trình điều tra bị cáo Hồ Thị T đồng ý với nội dung truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 31/8/2018 tại phòng số 04 và phòng số 05 nhà nghỉ H, thuộc thôn 02, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, Hồ Thị T có hành vi cho Tôn Thất Hoàng Nhật Q và Đoàn Văn H mua dâm với Lữ Hạnh Tùng M và Nguyễn Thị H nhằm mục đích thu 1.000.000 đồng. Đến khoảng 22 giờ 45 phút khi H và M đang bán dâm cho khách mua dâm thì bị Công an huyện Ea H’Leo phát hiện bắt quả tang.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo thay đổi quyết định truy tố đối với bị cáo Hồ Thị T, từ điểm đ khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự sang khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự về tội “Chứa mại dâm”.

Xét thấy, việc rút một phần quyết định truy tố của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo tại phiên tòa là phù hợp với Điều 319 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên cần chấp nhận. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp luật để kết luận: Bị cáo Hồ Thị T đã phạm tội “Chứa mại dâm” được quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật; hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 89/2017/HSST, ngày 28/9/2017 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm về tội “Môi giới mại dâm”. Như vậy, bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách, theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án nói trên và tổng hợp với hình phạt của bản án về tội “Chứa mại dâm”. Ngoài ra, bị cáo chưa được xóa án tích mà phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, cần áp dụng đối với bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm trừng trị đồng thời cải tạo giáo dục bị cáo. Ngoài ra, còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Đi với hai căn phòng và phần diện tích quyền sử dụng đất để xây dựng nhà nghỉ H mà Hồ Thị T dùng để chứa mại dâm do Lê Quang V và Hồ Thị T xây dựng, Quyền sử dụng đất là của Lê Quang C, việc T dùng hai căn phòng để chứa mại dâm, ông V, anh C không biết nên chỉ tịch thu ½ giá trị hai căn phòng.

Đi với Nguyễn Văn U đã có hành vi chở Lữ Hạnh Tùng M đến nhà nghỉ H nhưng không có căn cứ để chứng minh U chở M đến để bán dâm nên không có căn cứ để xem xét, giải quyết.

[3] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen có gắn sim số 0949346048 và số 0961173524, ½ trị giá hai căn phòng là 41.592.000 đồng của Hồ Thị T; 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen có gắn sim số 01679760136 của Nguyễn Thị H.

[4] Về án phí hình sự: Bị cáo Hồ Thị T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Thị T phạm tội “Chứa mại dâm”.

2. Xử phạt bị cáo Hồ Thị T 01 năm 07 tháng (Một năm bảy tháng) tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Môi giới mại dâm” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 89/2017/HSST, ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo Hồ Thị T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 07 tháng (Hai năm bảy tháng) tù. Khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2018 đến ngày 29/11/2018. Bị cáo Hồ Thị T còn phải chấp hành hình phạt tù còn lại là 02 năm 04 tháng 01 ngày (Hai năm bốn tháng một ngày) tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen có gắn sim số 0949346048 và số 0961173524, ½ trị giá hai căn phòng là 41.592.000 đồng của Hồ Thị T; 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen có gắn sim số 01679760136 của Nguyễn Thị H (Đặc điểm vật chứng được lưu tại hồ sơ vụ án).

4. Về án phí hình sự: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hồ Thị T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1, khoản 4 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo Hồ Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

364
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về