TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại Trung tâm văn hóa học tập cộng đồng phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019; Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số: 09/2019/QĐ-TĐTT ngày 23 tháng 5 năm 2019, đối với các bị cáo:
1. Đặng Đình L; tên gọi khác: N, sinh năm 1995 tại Tp C; Hộ khẩu thường trú: phường L1, quận L2, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Tuấn K (chết) và bà Phan Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 21-01-2019; tạm giam ngày 24-01- 2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt)
2. Vũ Văn D; tên gọi khác: không, sinh năm 1998 tại Tp. H; Hộ khẩu thường trú: phường K, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T (chết) và bà Phan Thị Kim P; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 21-01- 2019; tạm giam ngày 24-01-2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Thanh T, sinh năm 1967;
2. Ông Trần Minh T, sinh năm 1997;
Cùng địa chỉ: phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (Ông Thanh T, ông Minh T có đơn xin vắng mặt)
- Người làm chứng:
1. Bà Phan Thị T, sinh năm 1968, Địa chỉ: phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đặng Đình L là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng, L tìm mua ma túy của người tên U (không rõ nhân thân, lai lịch) đem về cất giấu để bán kiếm lời. Ngày 19/01/2019 L mua của U 09 gói ma túy tổng hợp (ma túy đá) đem về cất giấu và đã sử dụng hết 02 gói. Khoảng 10 giờ ngày 21/01/2019 có người tên D1 (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện cho L hỏi mua 02 gói ma túy với giá 300.000 đồng, L đồng ý bán và hẹn đến quán cà phê N tại phường L, thành phố B để giao ma túy.
Khoảng 11 giờ cùng ngày, Vũ Văn D đến nhà L chơi. Do không có xe nên L rủ Văn D cùng đi, D đồng ý. Lộc lấy 05 gói ma túy, trong đó 02 gói để trong thiệp cưới còn lại để riêng, rồi điều khiển xe mô tô biển số 72K9-3795 chở Văn D đến quán cà phê N. Khi đến gần quán cà phê thì L đưa ma túy cho Văn D đem vào giao cho người mua. Trong khi Văn D đang tìm người tên D để giao số ma túy trên thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt giữ Vũ Văn D và L cùng với tang vật chứng.
Tang vật thu giữ gồm: 05 gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu trong suốt của Vũ Văn D, trong đó 02 gói (đựng trong thiệp cưới) đang cầm trên tay, 02 gói trong túi quần và 01 gói rơi dưới đất nơi Văn D đang đứng; 01 xe mô tô biển số 72K9-3795 và 01 điện thoại Iphone màu vàng, số Imei 013989002340205.
Sau khi bị bắt L khai nhận và tự nguyện giao nộp 02 gói nylon hàn kín chứa chất kết tinh không màu trong suốt giấu trong 01 điện thoại di động hiệu Samsung cất tại nhà mình cho cơ quan điều tra.
Tại bản kết luận giám định số 38/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận:
“1. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 02 gói nylon hàn kín (Mẫu A1), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (Số thứ tự 01) gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,1129 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
2. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 02 gói nylon hàn kín (Mẫu A2), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (Số thứ tự 02) gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,1250 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
3. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín (Mẫu A3), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (Số thứ tự 03) gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,0933 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
4. Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 02 gói nylon hàn kín (Mẫu A4), được niêm phong trong một phong bì màu trắng (Số thứ tự 04) gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,2264 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 04 phong bì gửi giám định đã niêm phong, bên trong chứa 0,0834 gam mẫu A1; 0,0932 gam mẫu A2; 0,0782 gam mẫu A3 và 0,1686 gam mẫu A4 còn lại sau giám định” Tại cơ quan điều tra, Đặng Đình L khai nhận ngoài lần bán ma túy bị bắt quả tang, trước đó khoảng 01 tuần cũng tại quán cà phê N, L đã bán cho người tên D 02 gói ma túy đá với số tiền 300.000 đồng.
Ngoài lần bán cho đối tượng tên D, Đặng Đình L còn 04 lần bán ma túy cho Vũ Văn D, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 16/01/2019, L bán cho Vũ Văn D 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng;
Lần thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 17/01/2019, L bán cho Vũ Văn D 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng;
Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 18/01/2019, tại đầu hẻm nhà mình, L bán cho Vũ Văn D 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng;
Lần thứ tư: Khoảng 09 giờ ngày 21/01/2019, tại nhà của mình, L tiếp tục bán cho Vũ Văn D 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng;
Đối với số ma túy Đặng Đình L cất giấu nhằm bán lại khi có người mua.
Đối với Vũ Văn D, khi nhận 05 gói ma túy từ L biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của L nhưng vẫn đồng ý thực hiện.
Đối với đối tượng tên D1 là người đã mua ma túy của L, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không đủ cơ sở khẳng định L đã bán ma túy cho người này. Do đó, không áp dụng tình tiết “Mua bán với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Đối với đối tượng tên U là người đã bán ma túy cho L, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi có kết sẽ xử lý sau.
Đối với số ma túy L giao nộp, quá trình điều tra xác định bị cáo tàng trữ với mục đích bán lại cho người khác kiếm lời, không có mục đích sử dụng.
Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra thu giữ 01 xe mô tô hiệu Honda, biển số 72K9-3795, xác định chủ sở hữu là ông Trần Thanh T, ông Thanh T giao xe cho con trai là Trần Minh T và Minh T cho bị cáo D mượn nhưng không biết bị cáo dùng vào việc phạm tội, CQĐT đã giao trả lại xe cho ông Thanh T; đối với số ma túy được niêm phong trong 04 phong bì còn lại sau giám định, 02 điện thoại di động đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự bảo quản, chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKSBR ngày 06/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Đặng Đình L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Vũ Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ thể hiện:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Đặng Đình L, Vũ Văn D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đặng Đình L từ 08 đến 09 năm tù; áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn D từ 02 đến 03 năm tù; Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy là tang vật của vụ án; tịch thu sung công 02 điện thoại di động; Hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với các bị cáo.
Ý kiến của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về quan điểm luận tội của Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác như biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 21/01/2019, tại quán cà phê N thuộc phường L, thành phố B. Các bị cáo Đặng Đình L, Vũ Văn D có hành vi tàng trữ 02 gói ma túy loại Methamphetamine, trọng lượng 0,1129 gam với mục đích bán cho một người tên D1, khi chưa kịp giao ma túy thì bị bắt quả tang; Ngoài ra còn thu giữ của hai bị cáo 03 gói ma túy trọng lượng 0,2183 gam; thu giữ của bị cáo L 02 gói ma túy trọng lượng 0,2264 gam cùng loại Methamphetamine tàng trữ với mục đích bán cho các con nghiện. Bị cáo L, ngoài lần bị bắt quả tang thì đã 04 lần bán trái phép chất ma túy cho Vũ Văn D, mỗi lần bán với giá 200.000 đồng/gói. Bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội nhiều; bị cáo D tham gia bán ma túy với L lần đầu, những lần D mua ma túy của L để sử dụng, không có mục đích mua bán.
Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đặng Đình L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Vũ Văn D đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra: Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là chất độc gây nghiện ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và nòi giống của con người, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn và các tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì mục đích muốn có tiền tiêu xài đã bất chấp và phạm tội nên phải xử lý thật nghiêm.
[4] Xét tính đồng phạm, vai trò của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo L là người mua ma túy, tham gia bán nhiều lần, L liên lạc với người mua và rủ rê Vũ Văn D tham gia nên L chịu trách nhiệm chính; đối với bị cáo D khi được rủ thì đồng ý và tích cực tham gia, sử dụng xe của mình đang đi để làm phương tiện cùng L đi giao ma túy. Các bị cáo đều nghiện ma túy, không nghề nghiệp ổn định. Vì vậy, cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian đủ dài nhằm giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo L tự thú các lần phạm tội trước đó, bị cáo D phạm tội lần đầu, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 cho hai bị cáo và áp dụng điển r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo L.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả hai bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Tài sản là chiếc xe mô tô đã giao trả lại đúng quy định, chủ sở hữu không có yêu cầu gì thêm; Đối với số ma túy thu giữ là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; đối với 02 điện thoại di động hiệu Iphone và Samsung thu của bị cáo L có liên quan đến việc mua ma túy nên tịch thu sung công.
[8] Đối với đối tượng tên U và tên D1, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.
[9] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[10] Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đặng Đình L (tên họi khác: N), Vũ Văn D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Đình L 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21-01-2019.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Văn D 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21-01-2019.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy được niêm phong trong bốn phong bì niêm phong số 38/1, 38/2, 38/3 và 38/4 ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Samsung và 01 điện thoại di động hiệu Iphone.
(Vật chứng lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06-5-2019)
4. Về án phí: Buộc các bị cáo Đặng Đình L, Vũ Văn D mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm (Người vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết)./.
Bản án 27/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 27/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về