Bản án 27/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2019/TLST-HS ngày 12/02/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HS ngày 12/02/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Tam T, sinh 1994; HKTT: Xóm 2, thôn Thường Phúc, xã Thụy Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Tam Tự, sinh năm 1974, Con bà: Nguyễn Thị Én, sinh năm 1973. Gia đình có có 2 con, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền sự, Tiền án: Chưa. Bị bắt quả tang ngày 13/12/2018; Danh chỉ bản số 49 do Công an quận Nam Từ Liêm lập ngày 17/12/2018 - có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 45 ngày 13/12/2018, tại ngã tư Hàm Nghi - Lê Đức Thọ thuộc địa phận phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an quận Nam Từ Liêm tiến hành kiểm tra phát hiện Bùi Tam T có hành vi tàng trữ 03 túi ni lông chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma tuý và 01 coóng thuỷ tinh. Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, dẫn giải cùng vật chứng về Cơ quan Công an để điều tra làm rõ.

Tang vật thu giữ của Bùi Tam T:

- 03 túi nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể màu trắng;

- 01 điện thoại di động Nokia N1112 lắp sim 0376293609;

- 01 cóong bằng thuỷ tinh.

Kết luận giám định số 9412 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi nilông có tổng khối lượng 0,619 gam là ma tuý loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: Do nghiện hút ma tuý, nên khoảng 16 giờ ngày 13/12/2018 Bùi Tam T mua 03 túi ma tuý đá với giá 1.000.000 đồng của đối tượng Nam (không rõ tên tuổi và địa chỉ cụ thể) tại Thuỵ Sơn, Thái Thuỵ, Thái Bình để sử dụng và tiếp tục mua 01 cóong bằng thuỷ tinh của một người đàn ông không quen biết ở thành phố Thái Bình để sử dụng ma tuý. Sau đó, T bắt xe khách lên Hà Nội để tìm chỗ trọ. Khi T đi đến ngã tư đường Hàm Nghi - Lê Đức Thọ, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì bị Tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Tam T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nêu trên.

Đối với đối tượng Nam là người bán ma tuý và người đàn ông bán dụng cụ sử dụng ma tuý cho Bùi Tam T (theo lời khai của T) quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Tại Cơ quan điều tra Bùi Tam T khai nhận hành vi phạm tội Bản Cáo trạng số 51/CT-VKS ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Bùi Tam T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sớm trở về với gia đình .

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận, giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù giam. Vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy và 01 coóng bằng thủy tinh thu giữ của bị cáo, trả lại cho bị cáo T 01 chiếc điện thoại di động Nokia N1112 lắp sim 0376293609

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 19 giờ 45 ngày 13/12/2018, tại ngã tư Hàm Nghi - Lê Đức Thọ thuộc địa phận phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Bùi Tam T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,619 gam ma tuý Methamphetamine thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Theo bản kết luận giám định số 9412 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 03 túi nilông có tổng khối lượng 0,619 gam là ma tuý loại Methamphetamine. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[3] Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội mà vẫn thực hiện do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng, loại ma túy mà bị cáo tàng trữ, căn cứ vào nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo thì phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Bùi Tam T, cán bộ Nguyễn Xuân Minh, giám định viên Trần ngọc Chinh, 01 coóng thủy tinh hình tẩu hút. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Nokia N1112 lắp sim 0376293609

[6] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ án: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Bùi Tam T từ 12 đến 18 tháng tù giam, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106 và các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Tuyên bố bị cáo Bùi Tam T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

- Xử phạt bị cáo Bùi Tam T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/12/2018;

- Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Bùi Tam T, cán bộ Nguyễn Xuân Minh, giám định viên Trần Ngọc Chinh, 01 coóng thủy tinh hình tẩu hút. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Nokia N1112 lắp sim 0376293609. Các vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo Biên bản giao vật chứng số 74 ngày 25/01/2019.

- Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 21/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về