Bản án 27/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2019 đối với bị cao:

Họ và tên: Lê Văn H. Tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/10/1979. Nơi sinh: Đ, Nghệ An. Nơi ĐKHKTT: Xóm 7, xã Q, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Phụ xe khách; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; đoàn thể: Đảng viên đang bị tạm đình chỉ sinh hoạt Đảng; con ông: Lê Văn T và bà: Lê Thị L; anh chị em ruột: 06 người; có vợ: Đặng Thị T; có 03 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2018 đến ngày 14/12/2018 cho bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Văn H là phụ xe khách giường nằm của anh Nguyễn Hồng C mang BKS Lào: UN - 7307 chạy tuyến Vinh- Xiêng Khoảng, nước CHDCND Lào. Vào tháng 9/2018 bị cáo có quen một người phụ nữ tên T (quê Diễn Châu lấy chồng ở Lào) nên được chị T đặt vấn đề nhờ Hải vận chuyển pháo về Việt Nam, sau khi trả hàng, nhận tiền hàng đưa sang Lào sẽ thanh toán tiền vận chuyển, mỗi thùng hàng chị T trả 500.000đ. Khoảng 16 giờ chiều ngày 12/11/2018 chị T chở đến phòng trọ của bị cáo H ở thành phố Phôn Xa Vẳn, tỉnh Xiêng Khoảng 2 thùng cát tông trong đựng pháo giao cho bị cáo H và nói: Thu tiền hàng 17.400.000đ, trả công vận chuyển: 1.000.000đ được Hải đồng ý. Khoảng 6 giờ sáng ngày 13/11/2018 xe ô tô khách BKS: UN- 7307 do anh C điều khiển, H làm phụ xe khởi hành về Việt Nam, khoảng 10 giờ cùng ngày làm thủ tục qua cửa khẩu Nậm Cắn ( Kỳ Sơn), chiều cùng ngày xe về bến xe Vinh trả khách, trả hàng. Do người nhận pháo bận việc nên bị cáo H chưa giao được 2 thùng pháo mà để lại ở xe ô tô. Chiều ngày 14/11/2018 qua điện thoại thống nhất thời gian giao, nhận hàng nên bị cáo từ Đô Lương xuống bến xe Vinh để giao. Khi 2 người khách đến nhận hàng tại xe UN- 7307, bị cáo đang mở thùng hàng kiểm tra thì bị Tổ Công tác Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật là 29 khối hình hộp bên trong mỗi khối có 36 thỏi hình trụ tròn có tổng khối lượng là 39,08kg.

Tại Bản Kết luận giám định số 308/KL-PC09 (CN) ngày 20/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Hai mẫu vật ký hiệu M1 và M2 thu giữ của Lê Văn H gửi đến giám định là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ.

Ngoài số pháo trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của bị cáo H và xe ô tô khách BKS UN-7307 của anh C. Do không liên quan tội phạm và tài sản hợp pháp nên đã trả điện thoại cho bị cáo, xe ô tô cho anh C.

Đối với chị T ở Lào do bị cáo H khai không rõ lai lịch nên không có căn cứ để điều tra, xử lý. Hai người đàn ông nhận hàng đã bỏ trốn khi Công an phát hiện nên không có cơ sở xử lý. Anh Lê Hồng C là chủ xe khi nhận hàng, trả hàng anh không biết nên không có cơ sở xác định đồng phạm. Các cán bộ Hải quan kiểm tra xe ô tô khi quan Cửa khẩu Nậm Cắn đã thực hiện đúng quy định nhưng không phát hiện được hàng cấm nên không đủ căn cứ xử lý.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS-P3 ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “ Vận chuyển hàng cấm” theo điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng quy kết, bị cáo nhận thức được sai lầm, vi phạm pháp luật, bố bị cáo là bộ đội nghỉ hưu nay đã mất được tặng huân chương kháng chiến hạng 3, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ xin pháp luật khoan hồng cho cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu nên cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng, cải tạo tại địa phương là đủ. Áp dụng điểm k khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn H: 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là: 24 tháng. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 2 thùng cát tông trong đựng pháo thu giữ của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Lê Văn H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, kết luận giám định.

Có đủ cơ sở để kết luận bị cáo H đã vận chuyển 39,08 kg pháo nổ từ nước Lào về Việt Nam để giao cho người mua nên đã phạm tội “ Vận chuyển hàng cấm” với tình tiết vận chuyển qua biên giới nên áp dụng điểm k khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự để xét xử là đúng người, đúng tội.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Xét tính chất phạm tội thấy rằng, bị cáo Lê Văn H là người có trình độ văn hóa, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo đã biết rõ Nhà nước ta đã cấm pháo từ lâu, hậu quả của việc buôn bán, vận chuyển, đốt pháo nhưng do hám lợi bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật lao vào con đường tội lỗi, hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội nên cần trừng trị nghiêm.

[5] Xét các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bố bị cáo là ông Lê Văn T là người có công là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, công việc ổn định nên cho bị cáo hưởng lượng khoan hồng của pháp luật cho hưởng án treo để bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương, trở thành công dân tốt cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Lê Văn H chưa thu lợi bất chính, hoàn cảnh kinh tế, tài sản gia đình có đất ở, nhà cấp 4 nhưng đang vay tín dụng tại Ngân hàng 300.000.000đ, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là Phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Vật chứng là thùng các tông trong đựng 33,64kg pháo được niêm phong cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Căn cứ điểm k khoản 2 điều 191, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 24 ( Hai mươi tư) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48( Bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (10/4/2019).

Giao bị cáo Lê Văn H cho UBND xã Q, huyện Đ, Nghệ An và gia đình theo dõi, quản lý và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp bị cáo vi phạm nghĩa vụ án treo hai lần thì buộc bị cáo phải chấp hành án hình phạt tù. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú được thực hiện theo điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng đối với bị cáo H.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 33,64 kg pháo (được niêm phong trong 2 hộp cát tông); Đặc điểm cụ thể tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng , lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra ( PC03) Công an tỉnh Nghệ An. Hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Công an tỉnh Nghệ An.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 10/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về