TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 27/2019/HS-PT NGÀY 11/04/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 11 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 19/2019/TLPT-HS ngày 13 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D, Nguyễn Thị Cẩm N. Do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D, Nguyễn Thị Cẩm N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước.
Bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Phạm Như K, sinh năm 1985 tại Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: Ấp 1, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Như K1, sinh năm: 1954 và bà Bùi Thị H, sinh năm: 1958; bị cáo có vợ là Vũ Thị X, sinh năm: 1985 và 01 người con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Trần Ngọc T, sinh năm 1981 tại Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc T1, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1956; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Phương D, sinh năm: 1986 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Nguyễn Thị Phương D, sinh năm 1986, tại Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trí T2, sinh năm 1962 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1964; bị cáo có chồng là Trần Ngọc T, sinh năm: 1981 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4. Họ và tên: Nguyễn Thị Cẩm N (Tên gọi khác: Chị Hai), sinh năm 1981, tại Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T3, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1960; bị cáo có chồng là Võ Văn T4, sinh năm: 1977 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 04/5/2018, anh Lê Quang T5 là phó giám đốc Công ty THHH MTV TM Mỹ Lệ (Công ty Mỹ Lệ) thuộc ấp 11A, xã L, huyện L, phân công Phạm Như K là nhân viên kế toán của Công ty đến ngân hàng ở tỉnh Bình Dương rút số tiền 5.055.000.000 đồng cho công ty. Sau khi rút tiền, K về huyện L thì anh T5 điện thoại yêu cầu K trả cho bà Nguyễn Thị N1 (Tên gọi khác là Ngọc), hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã L, huyện L số tiền: 01 tỷ đồng, nhưng K chỉ viết giấy trả 800.000.000 đồng còn lại 200.000.000 đồng, K lấy để trả nợ và đánh bạc (Ghi số đề). Đến khoảng 20 giờ ngày 07/5/2018 sau khi liên lạc với bà Nhâm thì anh T5 phát hiện K lấy tiền của công ty là 200.000.000 đồng mà không trả nợ nên đã trình báo Công an. Sau đó, K đã tự nguyện trả lại số tiền 200.000.000 đồng cho Công ty Mỹ Lệ.
Tại cơ quan điều tra, Phạm Như K đã thừa nhận hành vi lấy tiền của Công ty Mỹ Lệ trả nợ và tham gia đánh bạc với hình thức ghi số đề (Đánh bao lô 2 số) với Trần Ngọc T từ tháng 12/2017, K sử dụng điện thoại di động Nokia có sim 0975.402.279 nhắn tin ghi số đề với Trần Ngọc T qua số 0963.124.122 đài miền Nam và miền Bắc. Khi có kết quả thì K và T sẽ hẹn nhau tại nhà T hoặc quán cà phê để tính tiền thắng thua.
Qua đấu tranh Trần Ngọc T khai nhận ghi số đề cho Phạm Như K bằng hình thức sử dụng điện thoại di động Nokia có sim 0963.124.122 nhận tin nhắn của K, Sau đó, T sẽ giữ lại một phần gửi cho H1 (Chưa xác định nhân thân, lai lịch), một phần T sử dụng điện thoại di động Iphone 6Plus số sim 0947.771.778 nhắn tin gửi cho vợ của T là Nguyễn Thị Phương D qua số điện thoại: 0947.985.965 để D ghi lại số đề cho Nguyễn Thị Cẩm N qua số điện thoại: 0168.945.37.27 tại Khu phố N, thị trấn L, huyện L. T, K, D và N quy ước như sau: Đối với đài miền Nam: T, D tính tiền cho K ghi bao lô hai số là 15 lô/18 lô (Đánh 1.000 đồng thì tính tiền 15.000 đồng), còn N tính tiền cho D là 14 lô/18 lô (Đánh 1.000 đồng thì tính tiền 14.000 đồng), tỷ lệ thắng thua: 1000 đồng thắng 70.000 đồng, đối với đài miền Bắc thì tính tiền ghi bao lô hai số là 27 lô, tỷ lệ thắng thua: 1000 đồng thắng 90.000 đồng. K ghi số đề đài miền Nam 15.000 đồng thì T và D sẽ hưởng tiền chênh lệch 1.000 đồng. Ngày 08/5/2018, khi T hẹn gặp K để thanh toán tiền cho K thắng đề là 12.150.000 đồng thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện L phát hiện mời về làm việc.
Quá trình điều tra thu giữ của Phạm Như K: 01 điện thoại di động có sim: 0975.402.279; Trần Ngọc T: 13.950.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia 230 số sim 0963.124.122; 01 điện thoại di động Iphone 6Plus số sim 0947.771.778; Nguyễn Thị Phương D: 01 điện thoại di động Iphone 7Plus số sim: 0947.985.965; Nguyễn Thị Cẩm N: 01 quyển sổ; 01 máy tính và 01 điện thoại di động Oppo màu vàng đồng.
Tiến hành giải trình tin nhắn số đề ghi trong điện thoại thu giữ của Trần Ngọc T, Phạm Như K, Nguyễn Thị Phương D và Nguyễn Thị Cẩm N đã xác định số tiền T, K, D và N ghi đề như sau:
* Đối với Phạm Như K: Nhắn tin ghi số đề với Trần Ngọc T Ngày 03/5/2018, K ghi đề đài Tây Ninh với số tiền 3.000.000 đồng; đài miền Bắc với số tiền 9.450.000 đồng. Kết quả, K trúng đài miền Bắc 10.800.000 đồng. Như vậy, số tiền K tham gia đánh bạc đài Tây Ninh là 3.000.000 đồng, đài miền Bắc là: 20.250.000 đồng.
Ngày 04/5/2018, K ghi đề đài Bình Dương với số tiền là 13.500.000 đồng. K không trúng. Số tiền K đánh bạc là 13.500.000 đồng.
Ngày 05/5/2018, K ghi đề đài Thành phố Hồ Chí Minh là 15.750.000 đồng, đài miền Bắc là 14.850.000 đồng. Kết quả K trúng đài Thành phố Hồ Chí Minh 2.100.000 đồng, trúng đài miền Bắc 4.500.000 đồng. Như vậy, số tiền K tham gia đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 17.850.000 đồng, đài miền Bắc là 19.350.000 đồng.
Ngày 06/5/2018, K ghi đề đài Tiền Giang với số tiền là 15.000.000 đồng, đài miền Bắc là 15.660.000 đồng, Kết quả K trúng đài Tiền Giang 3.500.000 đồng, trúng đài miền Bắc 2.700.000 đồng. Như vậy, số tiền K tham gia đánh bạc đài Tiền Giang là 18.500.000 đồng, đài miền Bắc là 18.360.000 đồng.
Ngày 07/5/2018, K ghi đề đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 7.200.000 đồng, đài miền Bắc là 13.770.000 đồng, Kết quả K trúng đài Thành phố Hồ Chí Minh 21.000.000 đồng, đài miền Bắc 37.800.000 đồng. Như vậy, số tiền K tham gia đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 28.200.000 đồng, đài miền Bắc là 51.570.000 đồng.
* Đối với Trần Ngọc T: Nhận tin nhắn ghi số đề của K, sau đó nhắn tin ghi số đề một phần cho H1 và nhắn tin 1 phần cho D, cụ thể như sau:
Ngày 03/5/2018, T nhận tin nhắn ghi đề của K với số tiền đài Tây Ninh là 3.000.000 đồng, đài miền Bắc là 9.450.000 đồng. T giao số đề đài miền Bắc cho một người tên H1 (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) và giao lại số đề đài Tây Ninh cho D. Kết quả, T trúng đài miền Bắc 10.800.000 đồng. Như vậy, số tiền T đánh bạc đài Tây Ninh là 3.000.000 đồng và đài miền Bắc là 20.250.000 đồng.
Ngày 04/5/2018, T nhận tin nhắn ghi đề của K đài Bình Dương với số tiền là 13.500.000 đồng. T giao cho H1 (Không gửi cho D). Kết quả không trúng. Như vậy, số tiền T đánh bạc là 13.500.000 đồng
Ngày 05/5/2018, T nhận tin nhắn ghi đề của K đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 15.750.000 đồng, đài miền Bắc là 14.850.000 đồng. T giao lại một phần số đề cho H1 đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 2.700.000 đồng, đài miền Bắc là 5.400.000 đồng và giao lại một phần số đề cho D đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 13.050.000 đồng, đài miền Bắc là 9.450.000 đồng. Kết quả, T trúng đài Thành phố Hồ Chí Minh 2.100.000 đồng, đài miền Bắc là 4.500.000 đồng. Như vậy, số tiền T đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 17.850.000 đồng, ghi đề đài miền Bắc là 19.350.000 đồng.
Ngày 06/5/2018, T nhận tin nhắn ghi đề của K đài Tiền Giang với số tiền là 15.000.000 đồng, đài miền Bắc là 15.660.000 đồng. T giao lại một phần số đề cho H1 đài Tiền Giang với số tiền là 3.750.000 đồng, đài miền Bắc là 7.560.000 đồng và giao một phần số đề cho D đài Tiền Giang với số tiền là 11.250.000 đồng, đài miền Bắc là 8.100.000 đồng. Kết quả T trúng đài Tiền Giang 3.500.000 đồng, đài miền Bắc là 2.700.000 đồng. Như vậy, số tiền T đánh bạc đài Tiền Giang là 18.500.000 đồng, ghi đề đài miền Bắc là 18.360.000 đồng
Ngày 07/5/2018, T nhận tin nhắn ghi đề của K đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 7.200.000 đồng, đài miền Bắc là 13.770.000 đồng. T giao lại một phần số đề cho H1 đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền là 3.150.000 đồng, đài miền Bắc là 6.480.000 đồng và giao một phần số đề cho D đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 4.050.000 đồng, đài miền Bắc là 7.290.000 đồng. Kết quả, T trúng đài Thành phố Hồ Chí Minh 21.000.000 đồng, trúng đài miền Bắc 37.800.000 đồng. Như vậy, số tiền T đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 28.200.000 đồng, ghi đề đài miền Bắc là 51.570.000 đồng.
* Đối với Nguyễn Thị Phương D, Nguyễn Thị Cầm N:
Ngày 03/5/2018, D nhận tin nhắn của Trần Ngọc T ghi số đề cho Phạm Như K với số tiền đài Tây Ninh 3.000.000 đồng (D tính tiền với K là 15 lô/18 lô). D ghi lại số đề cho Nguyễn Thị Cẩm N với số tiền 2.800.000 đồng (N tính tiền với D là 14 lô/18 lô). Kết quả không trúng. Số tiền D đánh bạc là 3.000.000 đồng; N đánh bạc là 2.800.000 đồng.
Ngày 05/5/2018, D nhận tin nhắn của T ghi số đề cho K với số tiền đài Thành phố Hồ Chí Minh 13.050.000 đồng, số tiền đài miền Bắc là 9.450.000 đồng. D ghi lại số đề cho N đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 12.180.000 đồng; số tiền đài miền Bắc là 9.450.000 đồng. Kết quả không trúng. Số tiền D đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 13.050.000 đồng, đài miền Bắc là 9.450.000 đồng; N đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 12.180.000 đồng, đài miền Bắc là 9.450.000 đồng.
Ngày 06/5/2018, D nhận tin nhắn của T ghi số đề cho K với số tiền đài Tiền Giang 11.250.000 đồng, số tiền đài miền Bắc là 8.100.000 đồng. D ghi lại số đề cho N đài Tiền Giang với số tiền là 10.500.000 đồng; đài miền Bắc 8.100.000 đồng. Kết quả không trúng. Số tiền D đánh bạc đài Tiền Giang là 11.250.000 đồng, đài miền Bắc là 8.100.000 đồng; N đánh bạc đài Tiền Giang là 10.500.000 đồng, đài miền Bắc là 8.100.000 đồng.
Ngày 07/5/2018, D nhận tin nhắn của T ghi số đề cho K với số tiền đài Thành phố Hồ Chí Minh 4.050.000 đồng, đài miền Bắc là 7.290.000 đồng. D ghi lại số đề cho N đài Thành phố Hồ Chí Minh với số tiền 3.780.000 đồng; đài miền Bắc là 7.290.000 đồng. Kết quả, D trúng đài Thành phố Hồ Chí Minh 18.900.000 đồng, đài miền Bắc trúng 24.300.000 đồng. Số tiền D đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 22.950.0000 đồng, đài miền Bắc là 31.590.000 đồng; N đánh bạc đài Thành phố Hồ Chí Minh là 22.680.000 đồng, đài miền Bắc là 31.590.000 đồng.
Ngoài ra, Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D và Nguyễn Thị Cẩm N còn tham gia đánh bạc (Ghi số đề bao lô hai số) từ tháng 12/2017 đến ngày 02/5/2018. K và T đã tính tiền thắng thua từ tháng 12/2017 đến ngày 03/5/2018. Từ ngày 04/5/2018 đến ngày 07/5/2018 thì chưa tính tiền thắng thua. Số tiền K thua và T thu lợi bất chính ngày 03/5/2018 là: 1.650.000 đồng. N và D chưa tính tiền thắng thua từ ngày 03/5/2018 đến ngày 07/5/2018.
Quá trình điều tra xác định: 01 điện thoại di động Nokia thu giữ của Phạm Như K; 01 điện thoại di động Nokia 230; 01 điện thoại di động Iphone 6Plus; 12.150.000 đồng thu giữ của Trần Ngọc T; 01 điện thoại di động Iphone 7Plus thu giữ của Nguyễn Thị Phương D là công cụ và tiền dùng vào việc đánh bạc nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà Nước; 01 quyển sổ; 01 máy tính thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm N là công cụ dùng để đánh bạc nên tịch thu tiêu hủy; Riêng 01 điện thoại di động Oppo màu vàng đồng thu giữ của N không liên quan đến vụ án nên trả lại cho N. Đối với số tiền 1.800.000 đồng thu giữ của T không liên quan đến vụ án nhưng T và D đã thu lợi bất chính 1.650.000 đồng nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước 1.650.000 đồng, trả lại cho T 150.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước đã tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D và Nguyễn Thị Cẩm N phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Phạm Như K 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời giam tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời giam tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N 01 năm tù, thời hạn tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương D 40.000.000 đồng sung quỹ nhà Nước
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/11/2018 bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Ngày 26/11/2018 bị cáo Phạm Như K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 27/11/2018 bị cáo Trần Ngọc T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Cùng ngày 27/11/2018 bị cáo Nguyễn Thị Phương D kháng cáo xin giảm nhẹ số tiền phạt.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N xin thay đổi kháng cáo từ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo sang kháng cáo xin chuyển sang hình phạt tiền.
Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử:
Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Ngọc T; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Phương D.
Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T và Nguyễn Thị Cẩm N. Xử phạt bị cáo Phạm Như K từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Trần Ngọc T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D, Nguyễn Thị Cẩm N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo là phù hợp với các tài liệu chứng cứ được tranh tụng tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 12/2017, Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D, Nguyễn Thị Cẩm N đã nhắn tin ghi số đề dựa trên kết quả xổ số các đài miền Nam và miền Bắc với tổng số tiền các bị cáo sử dụng để ghi số đề là 577.850.000 đồng. Trong đó Phạm Như K là 190.580.000 đồng, Trần Ngọc T là 190.580.000 đồng, Nguyễn Thị Phương D là 99.390.000 đồng, Nguyễn Thị Cẩm N là 97.300.000 đồng.
[2]. Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Ngọc T và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Phương D, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Đối với bị cáo Trần Ngọc T, bị cáo là người đứng ra nhận tiền, ghi số đề cho N và D nhiều lần với số tiền 190.580.000 đồng. Bị cáo T phạm tội nhiều lần nên không đủ điều kiện được hưởng án treo; Đối với bị cáo Nguyễn Thị Phương D tham gia đánh đề với số tiền là 99.390.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tiền, xử phạt bị cáo D số tiền 40.000.000 đồng là đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ, thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật trong việc xử phạt đối với nữ giới phạm tội. Vì vậy, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trần Ngọc T và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Phương D là không có căn chấp nhận.
[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Như K, bị cáo Trần Ngọc T và kháng cáo xin chuyển sang hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Bị cáo Phạm Như K có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện tự thú các lần phạm tội trước đó; có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nhân thân tốt, nên áp dụng khoản 1
Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo K.
Bị cáo Trần Ngọc T có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện tự thú các lần phạm tội trước đó; con của người có công với cách mạng; tự nguyện giao nộp tiền thu lợi bất chính; có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nhân thân tốt, nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo T.
Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện tự thú các lần phạm tội trước đó; có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo Nguyễn Thị Phương D tham gia đánh đề với số tiền 99.390.000 đồng, bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N tham gia đánh đề với số tiền 97.300.000 đồng, Như vậy, hai bị cáo đều là nữ tham gia đánh đề với số tiền tương đương nhau, có nhiều tình tiết giảm nhẹ như nhau, nhưng bị cáo D được Tòa án sơ thẩm xử phạt 40.000.00 đồng, còn bị cáo N thì bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 01 năm tù là có phần nghiêm khắc. Do đó cần áp dụng Điều 35 Bộ luật hình sự chấp nhận kháng cáo xin được phạt tiền của bị cáo N.
[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Ngọc T; không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Phương D. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T và chấp nhận kháng cáo xin chuyển sang hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N là có căn cứ được chấp nhận.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T và Nguyễn Thị Cẩm N không phải chịu; Bị cáo Nguyễn Thị Phương D phải chịu.
[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[1] Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Ngọc T; Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tiền của bị cáo Nguyễn Thị Phương D.
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; các điểm c, đ khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Như K; Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Trần Ngọc T; Chấp nhận kháng cáo xin chuyển sang hình phạt tiền của và Nguyễn Thị Cẩm N.
[3] Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước.
[4] Tuyên bố bị cáo Phạm Như K, Trần Ngọc T, Nguyễn Thị Phương D và Nguyễn Thị Cẩm N phạm tội “Đánh bạc”.
[5] Về Điều luật áp dụng và hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Như K 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời giam tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; khoản 1 Điều 54; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được khấu trừ thời giam tạm giam từ ngày 13/6/2018 đến ngày 31/7/2018.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cẩm N 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, r khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phương D 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Phương D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 27/2019/HS-PT ngày 11/04/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 27/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về