Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH Đ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 27/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 11 tháng 04 năm 2019, tại Hội trường xét xử của Tòa án nhân dân huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 507/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2019/QĐST-DS, ngày 25 tháng 03 năm 2019. Giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Văn L, sinh năm 1991 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp 3, xã Bình Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Phạm Thị Cẩm T, sinh năm 1992 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 3, xã Bình Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 24 tháng 07 năm 2018 cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn anh Trần Văn L trình bày:

Anh cùng chị Phạm Thị Cẩm T tự nguyện kết hôn vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre. Quá trình sống chung vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 12 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ nhậu nhẹt và anh đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không được và từ đó vợ chồng không còn chung sống với nhau nữa.

Vì vậy, tại phiên tòa hôm nay anh Trần Văn L yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Thị Cẩm T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con tên Trần Vũ D, sinh ngày 10/10/2011. Hiện tại con chung do anh L trực tiếp nuôi dưỡng nên khi ly hôn anh L yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T nhưng chị T không đến nên Tòa án không thu thập được lời khai của bị đơn.

* Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

Thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử và thực hiện đúng theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình xét xử sơ thẩm.

Nguyên đơn thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn vắng mặt tại các lần hòa giải, phiên tòa là chưa thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của đương sự theo luật định.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Qua xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, nhận thấy:

Anh L và chị T kết hôn vào năm 2010, có đăng ký kết hôn theo luật định nên hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ tháng 12 năm 2017 đến nay không hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh L theo quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung thì cháu Trần Vũ D có nguyện vọng sống với anh L và hiện tại anh L đang trực tiếp nuôi dưỡng nên đề nghị tiếp tục giao cho anh L được quyền nuôi con chung. Ghi nhận anh L nuôi con không yêu cầu chị T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con được quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Tài sản chung, nợ chung: Hai bên khai không có nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị Cẩm T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T là đúng quy định.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh L và chị T kết hôn với nhau vào năm 2010 và có đăng ký kết hôn theo luật định nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Từ tháng 12 năm 2017 đến ngày nay thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đã sống ly thân, vợ chồng không thể hàn gắn được, mỗi người ai cũng có cuộc sống riêng và không quan tâm đến nhau, đã vi phạm nghĩa vụ vợ chồng.

Xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh L và chị T là rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, anh L xin ly hôn với chị T là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Tại biên bản lấy ý kiến của cháu Trần Vũ D sinh ngày 10 tháng 10 năm 2011 thì cháu Vũ D có nguyện vọng sống với anh L.

Xuất phát từ lợi ích về mọi mặt của con chưa thành niên nên giao cháu Trần Vũ Duy cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Tại phiên tòa anh Trần Văn L nuôi con không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Đây là quyền quyết định và định đoạt của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội Nghị quyết quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Anh Trần Văn L phải chịu án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội Nghị quyết quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1/ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Trần Văn L và chị Phạm Thị Cẩm T.

2/ Về con chung:

Giao con chung tên Trần Vũ D, sinh ngày 10/10/2011 cho anh Trần Văn L trực tiếp nuôi dưỡng.

Ghi nhận anh Trần Văn L nuôi con không yêu cầu chị Phạm Thị Cẩm T phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Phạm Thị Cẩm T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh Trần Văn L trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 và Điều 119 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về tài sản chung: Không có.

4/ Về nợ chung: Không có.

5/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Anh Trần Văn L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh L đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0020981 ngày 05/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tre. Vậy, anh L đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Anh Trần Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Phạm Thị Cẩm T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HNGĐ-ST ngày 11/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:27/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về