Bản án 271/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 271/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/12/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 25 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 836/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 241/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Nh; địa chỉ: Thôn 5, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn D; địa chỉ: địa chỉ: Thôn 5, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 08/10/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Bùi Thị Nh (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 15/10/2014. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến tháng 8 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân nhau. Nay, chị Nh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị Nh yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn D.

Về con chung: Chị Bùi Thị Nh khai: Chị và anh Đỗ Văn D có 01 con là Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015. Hiện chị Nh đang nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị Nh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nh yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Nh mỗi con mỗi tháng 3.00.000 đồng kể từ tháng 11 năm 2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Nh khai: Chị và anh Đỗ Văn D không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Đỗ Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh D vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị Nh xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng Như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai Nhng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh và anh D. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nh và anh D được ly hôn. Về con chung: Chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D có 01 con chung là Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Bùi Thị Nh trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên anh Đỗ Văn D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Bùi Thị Nh mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về tài sản chung, nguyên đơn khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về nghĩa vụ nộp án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Bùi Thị Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Đỗ Văn D phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D được xác lập vào năm 2014 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn nên chị Nh và anh D hiện đã sống ly thân nhau. Chị Nh xin ly hôn anh D, Tòa án đã triệu tập anh D nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị Nh xin ly hôn Nhng anh D vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nh và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Nh và anh D được ly hôn.

[2] Về con chung: Chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D có 01 con chung là Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015. Khi ly hôn, chị Nh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện từ khi sống ly thân đến nay, chị Nh là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, chị Nh có công việc và thu nhập ổn định. Vì vậy giao cho chị Bùi Thị Nh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đỗ Văn D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Bùi Thị Nh mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Nh khai chị và anh Đỗ Văn D không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Bùi Thị Nh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Đỗ Văn D phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D.

2. Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị Nh trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Hà V, sinh ngày 25 tháng 10 năm 2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đỗ Văn D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Bùi Thị Nh mỗi con mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu đồng) kể từ tháng 12 năm 2019 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Nh phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Nh đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003115 ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Bùi Thị Nh đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Đỗ Văn D phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Chị Bùi Thị Nh và anh Đỗ Văn D có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 271/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:271/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về