Bản án 268/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 268/2019/HS-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội, xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 267/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 274/2019/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh T; Sinh năm:1975; Tên gọi khác: Không; ĐKHKTT: Số 26A1 tập thể Nguyễn C Trứ, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Chỗ ở: Số 1 ngách 112/43 Ngọc K, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn S(chết): Con bà: Lại Thị L; Chồng, con: Không. Tiền án tiền sự: Tiền án, tiền sự:

-Ngày 08/04/2001 Sử dụng trái phép chất ma túy C an phường Bạch Đằng bắt;

- Ngày 28/5/2003 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999;

- Ngày 15/11/2004 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999;

- Ngày 21/01/2019 Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 9 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Danh chỉ bản số 453 do C an quận Đống Đa lập ngày 06/6/2019.Có mặt.

Bị hại:

1.Ông Đỗ Văn T , sinh năm: 1952, HKTT: Số 8B ngõ 176 Khâm Thiên, phường Thổ Quan, quận Đống Đa, Tp Hà Nội.Vắng mặt.

2. Anh Vũ Sỹ C, sinh năm: 1996, HKTT: Thôn Hoài Trung, xã Liên Bão, Tiên Du, Bắc Ninh. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Đàm L, sinh năm: 1994, HKTT: Tổ 33 cụm 5, phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Tp Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khong 18 giờ 10 phút ngày 24/5/2018 tại trước số 160 phố Xã Đàn, phường Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội, C an quận Đống Đa bắt quả tang Trần Quốc T và Nguyễn Thị Thanh T có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Thị Thanh T còn có hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. T đã mua lại xe máy của các đối tượng trộm cắp mục đích để bán kiếm lời.

Sau khi bắt giữ T, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T ở cùng Dương Thị K tại số 1 ngách 112/43 Ngọc K, phường Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội. Cơ quan điều tra đã phát hiện tại tầng 3 của căn nhà và dẫn giải T thu giữ gồm:

- Về Ma túy: Cơ quan điều tra đã phát hiện và thu giữ 2,229 gam ma túy loại Heroine, 2,296 gam ma túy loại Methamphetamine và 6,711 gam ma túy loại Ketamine.

- Về Giấy tờ: Cơ quan điều tra đã thu giữ 30 giấy đăng ký mô tô; 36 Giấy chứng minh nhân dân và căn cước C dân; 74 Giấy phép lái xe.

- 01 biển kiểm soát xe mô tô 59P1-272.17.

- 07 xe mô tô các loại như sau:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Zoomer BKS: 29E2 - 330.81; SMJF 620145004; Số khung: MLH JF 620 K9H5145004.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS: 30H2 – 4469, RLHHC1217 DY 664891; SM HC 12E 5664983.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave BKS: 30M5-4937; SM: HC12E 2605868;SK: RLHHC 1201 AY 105811.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE BKS: 29D1-774.25; SM: JF27E0895951; SK: RLHJF2707BY120421.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu SH không có biển kiểm soát; SM: JF42E1018009; SK: RLHJF2707BY120421.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha BKS: 29G1-73444; SM: ZY1510M0770577; SK: JYMTJAA277A705739.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Spacy BKS: 25F2-3629; SM: JF15E5004271; SK: RLXJF15055Y004138.

Đi với hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Thanh T, Dương Thị K, Trần Quốc T, các hành vi này, Công an quận Đống Đa đã kết thúc điều tra, đề nghị truy tố, xét xử trước và tách tài liệu liên quan đến 07 chiếc xe mô tô; 01 chiếc biển kiểm soát xe môt tô cùng toàn bộ số giấy tờ thu giữ của Nguyễn Thị Thanh T để điều tra làm rõ xử lý sau.

Đến ngày 09/4/2019 Cơ quan CSĐT - Công an quận Đống Đa đã ra Quyết định Khởi tố vụ án hình sự về tội Trộm cắp tài sản; Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và Khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Thanh T về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác mà có để tiến hành điều tra xử lý theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra xác định:

Vụ thứ nhất: Về nguồn gốc chiếc xe mô tô Zoomer BKS: 29E2 – 330.81, xác minh chiếc xe có Biển kiểm soát thật là 29F1 – 419.31. Qua điều tra xác định chủ sở hữu của anh Nguyễn Đàm L (Sinh năm: 1994, HKTT: Tổ 33 cụm 5, phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Tp Hà Nội). Chiếc xe trên anh L bị mất trộm tại trước cửa số nhà 62 Lý Thường Kiệt, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội vào ngày 14/2/2018.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 398 ngày 09/10/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa kết luận chiếc xe mô tô BKS: 29F1 - 419.31 trị giá 66.009.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, T khai nhận đã mua chiếc xe mô tô này của một người đàn ông tên H cách ngày bị bắt khoảng 01 tháng với giá 6.000.000 đồng. Việc mua bán xe tại nơi ở T. Mục đích mua lại để bán kiếm lời. Khi mua bán chiếc xe trên, T biết rõ nguồn gốc là do trộm cắp mà có. Ngoài ra, T đã mua chiếc BKS: 29E2 - 330.81 ở khu vực chợ Trời, phường phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội gắn vào chiếc xe mô tô trên.

Ngày 26 tháng 12 năm 2018, Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Nguyễn Đàm L chiếc xe mô tô trên. Anh L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Đi với người đàn ông tên H, T khai không biết rõ họ tên và địa chỉ. Do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Vụ thứ hai: Về nguồn gốc chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 30H2 - 4469 xác minh chiếc xe có Biển kiểm soát thật là 99C1 - 224.92. Qua điều tra xác định chủ sở hữu của ông Vũ Sỹ C (Sinh năm: 1962, HKTT: Thôn Hoài Trung, xã Liên Bão, Tiên Du, Bắc Ninh) và ông C cho con trai là anh Vũ Sỹ C (Sinh năm: 1996 HKTT: Thôn Hoài Trung, xã Liên Bão, Tiên Du, Bắc Ninh) sử dụng. Theo anh C khai nhận, vào ngày 17/5/2018 anh C bị mất trộm chiếc xe trên tại trước số nhà 4/49/268 Đê La Thành, Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 400 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, kết luận chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 30H2 – 4469 trị giá 5.680.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, T khai nhận đã mua chiếc xe mô tô trên của một người đàn ông tên Tiến trước khi bị bắt khoảng 01 tuần với giá 2.000.000 đồng tại khu vực Vườn hoa Yec Xanh, phường Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khi mua chiếc xe không mang biển kiểm soát và T biết rõ là xe do trộm cắp mà có. Ngoài ra, T đã mua chiếc BKS: 30H2 - 4469 gắn vào xe để sử dụng.

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, Cơ quan điều tra đã trao trả cho ông Vũ Sỹ C chiếc xe mô tô trên. Ông C đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Vụ thứ ba: Về nguồn gốc chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 30M5 – 4937 qua điều tra xác định chủ sở hữu là ông Đỗ Văn T (Sinh năm: 1952, HKTT: Số 8B ngõ 176 Khâm Thiên, phường Thổ Quan, quận Đống Đa, Tp Hà Nội). Chiếc xe trên ông T bị mất trộm tại trước cửa nhà số 8B ngõ 176 Khâm Thiên vào ngày 18/5/2018.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 395 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, kết luận chiếc xe mô tô Honda Wave BKS: 30M5 – 4937 trị giá 4.097.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, chiếc xe này T khai mua của một người đàn ông tên Tiến cách ngày bị bắt khoảng 1 tuần với giá 2.000.000 đồng tại khu vực Vườn hoa Yec Xanh, phường Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khi mua T biết rõ nguồn gốc xe là do trộm cắp mà có.

Ngày 26 tháng 12 năm 2019, Cơ quan điều tra đã trao trả cho ông Đỗ Văn T chiếc xe mô tô trên. Ông T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

Đi với người đàn ông tên Tiến là người đã bán cho T hai chiếc xe mô tô tại vườn hoa Yec xanh. Hiện T khai không biết rõ họ tên và địa chỉ. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ xử lý.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Thanh T khai nhận hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có của mình như đã nêu trên.

Đi với chiếc xe mô tô Honda AIRBLADE, BKS: 29D1 - 774.25, Hiện T khai đã mua của một người phụ nữ tên Hà ở khu vực chợ Trời, phường Phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội trước khi bị bắt khoảng 10 ngày với giá 4.000.000 đồng. Khi T mua chiếc xe gắn BKS: 59P1 – 272.17 do T biết rõ nguồn gốc chiếc xe là do trộm cắp mà có nên đã gắn BKS: 29D1 – 774.25 với mục đích để bán kiếm lời. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên do ông Trần L (Sinh năm 1967, HKTT: G5 Cư Xá, Tân Sơn Nhì, phường 14, Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh) đứng tên đăng ký. Hiện ông L khai nhận chỉ đứng tên đăng ký chiếc xe trên cho một người cháu xã hội tên Ly (không biết rõ nhân thân lai lịch). Sau khi đăng ký chị Ly quản lý và sử dụng chiếc xe này. Cơ quan điều tra hiện chưa xác định và triệu tập được chị Ly để làm rõ nội dung sự việc Tại bản Kết luận định giá tài sản số 403 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, kết luận chiếc xe mô tô Honda AIRBLADE BKS: 59P1 – 272.17 trị giá 9.893.000 đồng.

Đi với chiếc xe mô tô Honda SH không mang BKS. T khai mua của một người đàn ông tên Long ở khu vực Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội trước ngày bị bắt khoảng 01 tháng với giá 18.000.000 đồng. T biết rõ đây là xe do trộm cắp mà có. Qua xác minh chiếc xe trên có BKS: 29C1 – 50.719 do anh Trịnh Quang H (Sinh năm: 1990, HKTT: 63 Hàng Đào, phường Hàng Đào, Hoàn Kiếm, Hà Nội) đứng tên đăng ký. Hiện anh H khai nhận anh đăng ký và sử dụng chiếc xe trên. Đến cuối năm 2017 thì anh đã bán lại cho một của hàng xe ở quận Hoàng Mai, Hà Nội (hiện Cơ quan điều tra không xác định được địa chỉ).

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 402 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, kết luận chiếc xe mô tô Honda SH BKS: 29C1 – 50.719 trị giá 52.038.000 đồng.

Đi với chiếc xe mô tô Yamaha BKS: 29G1 - 73.444, T khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực chợ xe chùa Hà, Hà Nội cách ngày bị bắt khoảng 03 tháng với giá 34.000.000 đồng. Khi mua người đàn ông trên có đưa cho T đăng ký chiếc xe trên mang tên Nguyễn Phúc H (Sinh năm 1944, HKTT: P506 H1 Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội. Qua giám định số khung, số máy chiếc xe mô tô trên xác định có dấu vết tác động cơ học. Xác minh tại đội Cảnh sát giao thông - Trật tự cơ động Công an quận Thanh Xuân được biết chiếc xe trên anh H mua của anh Lê Hồng T (Sinh năm 1969, HKTT: 100 Hoàng Quốc Việt, Bắc Từ Liêm, Hà Nội) có làm thủ tục sang tên, ban đầu chiếc xe có BKS: 30F3 – 9852. Hiện ông H khẳng định ông không đăng ký chiếc xe mô tô trên. Còn anh T khẳng định năm 2008 có đứng tên chiếc xe mô tô BKS: 30F3 – 9852 nhưng không bán chiếc xe này cho ông H.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 401 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, kết luận chiếc xe mô tô Yamaha BKS: 29G1 - 73.444 trị giá 5.851.000 đồng.

Đi với chiếc xe mô tô Spacy BKS: 25F2 - 3629 T khai mua của một người đàn ông tên Hưng ở khu vực Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội cách ngày bị bắt khoảng 6 tháng với giá 5.000.000 đồng. Khi mua người đàn ông có đưa cho T đăng ký xe mang tên Nguyễn Thị S (Sinh năm 1972, HKTT: Phong Châu 4, phường Đoàn Kết, Lai Châu, tỉnh Lai Châu). Kết quả tra cứu tại phòng Cảnh sát giao thông đường bộ đường sắt - Công an thành phố Hà Nội cho thấy đăng ký xe trùng khớp. Hiện, Cơ quan điều tra chưa triệu tập được chị S để làm rõ nội dung sự việc.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 399 ngày 09 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Đống Đa kết luận chiếc xe mô tô Spacy BKS: 25F2-3629 trị giá 4.434.000 đồng.

Đi với các giấy tờ thu giữ khi khám xét khẩn cấp nơi ở T, hiện T khai nhặt được ở khu vực chợ đồ cũ hầm Kim Liên, Hà Nội cách khi bị bắt khoảng 02 ngày. Cơ quan điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định các giấy tờ thu giữ trên và triệu tập những người liên quan để điều tra làm rõ. Tuy nhiên số lượng giấy tờ thu giữ nhiều, địa chỉ của những người đứng tên trong giấy tờ không rõ ràng cần có thời gian để xác minh. Do vậy, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án về hành vi Trộm cắp tài sản và Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cùng các tài liệu liên quan đến các xe mô tô Yamaha BKS: 29G1 - 73.444; Spacy BKS: 25F2 - 3629; SH không biển kiểm soát; AIBLADE BKS: 29D1 - 774.25; 32 giấy đăng ký mô tô; 36 giấy chứng minh nhân dân và căn cước C dân; 74 Giấy phép lái xe; 01 biển số xe máy 59P1 - 272.17 thu giữ của T để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Hiện những người bị hại trong vụ án là ông Đỗ Văn T, anh Vũ Sỹ C và anh Nguyễn Đàm L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại bản cáo trạng số 276/CT- VKSĐĐ ngày 25/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố Nguyễn Thị Thanh T về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát quận Đống Đa giữ nguyên quyết định truy tố sau khi phân tích tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Nhân thân bị cáo có 3 tiền án và hiện đang chấp hành bản án số : 06/2019/ HSST Ngày 21/01/2019 về tội " Mua bán trái phép chất ma túy và tội " tàng trữ trái phép chất ma túy' của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm tội 02 lần trở lên, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T từ 26 đến 30 tháng tù.

Bị cáo có ý kiến, bị cáo nhận thức rõ hành vi của bị cáo là phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và mong tòa xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1-Tại phiên toà, qua xét hỏi, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người làm chứng vật chứng thu được của vụ án. Đồng thời căn cứ vào các bản kết luận định giá tài sản. Đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 4 năm 2018 đến tháng 5 năm 2018 Nguyễn Thị Thanh T đã có hành vi mua 03 xe mô tô các loại, tổng trị giá 75.786.000 đồng là tài sản do người khác phạm tội mà có nhằm mục đích bán kiếm lời.

2- Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên HĐXX áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

3- Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự trị an, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của C dân; Bị cáo do muốn hưởng lời bất chính nên mặc dù biết rõ là tài sản do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn mua 03 xe mô tô các loại, tổng trị giá 75.786.000 đồng .

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo có thái độ ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt. Hiện bị cáo đang chấp hành bản án số 06/2019/HSST ngày 21/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hội đồng xét xử áp dụng Điều 104 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với bị cáo.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Ngoài hình phạt chính đáng lẽ bị cáo còn pH chịu thêm hình phạt bổ sung bằng tiền, song xét bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về phần dân sự:

Nhng người bị hại trong vụ án là ông Đỗ Văn T, anh Vũ Sỹ C và anh Nguyễn Đàm L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không xét.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ :

- Khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56; Điều 104 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 135, 331, 333, 336 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ”.

Xử phạt: Nguyễn Thị Thanh T 24(Hai mươi bốn) tháng tù.

Tng hợp với 09 ( chín) năm 06 ( sáu) tháng tù của bản án số : 06/2019/ HSST Ngày 21/01/2019 về tội " Mua bán trái phép chất ma túy và tội " tàng trữ trái phép chất ma túy' của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội.

Buộc Nguyễn Thị Thanh T phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là: 11(mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/5/2018.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 268/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:268/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về