Bản án 267/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 267/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 264/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 284/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Minh P, sinh năm 1976; tại Bình Dương; nơi cư trú: số 2, tổ 4, khu 7, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Không; con ông Lê Văn N và bà Danh Thị S; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Yen T và 01 con; tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 13/9/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 194 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 245/2012/HSST. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2012/HSST của Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai buộc Nguyễn Minh P phải chấp hành hìnhBộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 phạt chung là 08 năm 06 tháng tù.

Nhân thân:

- Ngày 15/5/2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Cướp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 88/HSST.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/8/2019 cho đến nay; có mặt.

Bị hại: Ông Nguyễn Chánh K, sinh năm 1996; địa chỉ: Khu 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 01/8/2019 anh Nguyễn Chánh K, sinh năm 1996, ngụ tại khu 3, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương và chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993, ngụ tại ấp R, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau điều khiển 02 xe mô tô biển số 61G1-604.17, hiệu Yamaha Exceiter, màu trắng và Honda Vision, biển số 69L1-033.96, màu đỏ về đến phòng trọ của anh K tại khu 3, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương và dắt xe vào phòng trọ của anh K, sau đó anh K khóa trái cửa bên trong tắt đền cùng chị T đi ngủ. Đến khoảng 04 giờ 00 phút sáng ngày 02/8/2019 anh K thức dậy thì phát hiện cửa phòng trọ mở, nhìn xuống chỗ để xe thì phát hiện 02 xe mô tô 61G1-604.17 và 69L1- 033.96 của anh K và chị T không còn. Lúc này anh K gọi T dậy bật điện kiểm tra thì phát hiện 02 xe mô tô cùng với giấy tờ xe và giấy tờ tùy thân của anh K và chị T đã bị lấy mất. Sau đó, anh K cùng chị T đến Công an phường Hòa Phú để trình báo vụ việc trên. Quá trình điều tra và định vị vị trí xe mô tô biển số 61G1-604.17 do anh K cung cấp thì Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một xác định xe mô tô của anh K đang được một đối tượng điều khiển nên đã tiến hành theo dõi. Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 02/8/2019 phát hiện Lê Minh P đang điều khiển xe mô tô của anh K lưu thông trên đường thuộc phường 13, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một đã phối hợp với Công an phường 13, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành dừng xe của Lê Minh P đồng thời mời Lê Minh P về trụ sở Công an phường 13, quận Bình Thạnh để làm việc. Tang vật thu giữ: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exceiter, biển số 61G1-604.17, một chứng minh nhân dân, một giấy chứng nhận đăng ký xe và một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Chánh K. Quá trình làm việc Lê Minh P khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 02/8/2019 Lê Minh P đang một mình đi lang thang trên đường Huỳnh Văn Cù, gần trường mẫu giáo Hoa Hướng Dương thuộc phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì gặp đối tượng tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) đang điều khiển xe mô tô, biển số 61G1-604.17, hiệu Yamaha Exceiter, màu trắng . Do quen biết từ trước nên cả hai nói chuyện với nhau, lúc này V hỏi P có mua xe 61G1-604.17 mà V đang chạy không thì P hỏi giá bán bao nhiêu, V nói bán với giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Thấy xe mô tô Yamaha đời 2017 còn mới nếu bán ngoài thị trường thì giá trị phải trên 40.000.000 đồng nhưng V bán với giá rẻ nên P hiểu rõ xe mô tô trên là do V trộm được mà có. Tuy nhiên, do lòng tham nên P đã đồng ý mua xe mô tô trên với số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Cả hai cùng rủ nhau vào quán cà phê gần đó để nói chuyện và làm hợp đồng (miệng) rồi giao tiền. Do trong người còn 6.000.000 đồng nên P nói với V cho nợ lại 4.000.000 đồng khi nào gặp lại sẽ trả và V đồng ý. Sau khi giao tiền cho V thì P nhận từ V xe mô tô hiệu Yamaha Exceiter, biển số 61G1- 604.17, một chứng minh nhân dân, một giấy chứng nhận đăng ký xe và một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Chánh K, sau đó P điều khiển xe trên lên quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh để thăm bạn gái, khi P đang điều khiển xe trên đường thuộc phường 13, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an phường 13, quận Bình Thạnh kiểm tra và mời về trụ sở Công an phường 13 làm việc.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 247 ngày 08/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 xe mô tô, nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, đời 2017, số máy G3E4D579695, số khung 0610HY555066, biển số 61G1-604.17, mua vào tháng 01/2017, trị giá 38.000.000 đồng (ba mươi tám triệu đồng).

Đối với 01 xe mô tô, hiệu Yamaha Exceiter 61G1-604.17, một chứng minh nhân dân, một giấy chứng nhận đăng ký xe và một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Chánh K. Ngày 09/8/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 115 trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Exceiter 61G1-604.17, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe và 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Chánh K cho anh Nguyễn Chánh K. Hiện tại, anh K không yêu cầu gì đối với Lê Minh P.

Cáo trạng số 278/CT-VKS - HS ngày 15/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Minh P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Minh P mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về vật chứng của vụ án: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Minh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 05 giờ 00 phút ngày 02/8/2019, trên đường Huỳnh Văn Cù, gần trường mẫu giáo Hoa Hướng Dương thuộc phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Lê Minh P mặc dù biết rõ xe mô tô, hiệu Yamaha Exceiter 61G1-604.17 (trị giá 38.000.000 đồng) của ông Nguyễn Chánh K do người tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) phạm tội mà có nhưng bị cáo vẫn đồng ý mua để sử dụng nên hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại nơi bị cáo gây án. Bị cáo nhận thức rõ việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản đã được thu hồi và giao trả cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Công an thành phố Thủ Dầu Một tiếp tục điều tra làm rõ hành vi của đối tượng tên V đã có hành vi trộm xe mô tô hiệu Yamaha Exceiter 61G1-604.17 và bán cho bị cáo Phương ngày 02/8/2019.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự; các Điều 136, 260 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Lê Minh p phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Minh P 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/8/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Minh P phải nộp 200.000 đồng.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 267/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:267/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về