Bản án 265/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 265/2020/DS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 255/2020/TLST-DS ngày 29 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 357/2020/QĐST-DS ngày 24/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 289/2020/QĐST-DS ngày 15/12/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần KL; địa chỉ trụ sở: Số 40-42- 44 Phạm Hồng Thái, phường VTV, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Tuấn A, chức vụ: Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Quốc Đ, chức vụ:

Phó Giám đốc phụ trách theo văn bản uỷ quyền số 1395/QĐ-NHKL ngày 29/6/2020 của Tổng giám đốc ngân hàng KL.

Người đại diện theo uỷ quyền: ông Đinh Công Ph, sinh năm 1983, chức vụ: tổ phó tín dụng Ngân hàng TMCP KL – chi nhánh An Giang – Phòng giao dịch Châu Đốc.Địa chỉ: số 26 Phan Văn Vàng, phường CP, thành phố CĐ, tỉnh An Giang. Có mặt - Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1983; vắng mặt Bà Hồ Như T, sinh năm 1982; có mặt Cùng nơi cư trú: ấp VT, thị trấn CD, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 10 năm 2020 và lời khai của nguyên đơn Ngân hàng TMCP KL trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:

Ông Đ và bà T có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT- A876937/HĐTD/CC và số HT-A876946/HĐTD/CC ngày 09/9/2019 để vay tổng số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay 180 ngày (10/9/2019 – 08/3/2020), lãi suất 16%/năm. Tài sản cầm cố bảo đảm nợ vay là xe 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Future, biển kiểm soát: 67D1 – 772.56 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 057125 do Công an tỉnh An Giang cấp ngày 09/7/2018 đứng tên ông Nguyễn Hữu Đ; xe máy 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát: 67D1-231.98 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 024192 cấp ngày 04/5/2013. Ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy xe, xe vẫn do ông Đ, bà T quản lý sử dụng.

Trong quá trình vay vốn, ông Đ, bà T chỉ thanh toán cho ngân hàng số tiền 8.391.477 đồng, trong đó tiền vốn: 7.777.778 đồng, lãi trong hạn đã trả: 613.699 đồng. Khi đến hạn thanh toán dù ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở, ông Đ, bà T chỉ cam kết nhưng vẫn không thực hiện.

Ngân hàng yêu cầu ông Đ và bà T cùng có nghĩa vụ trả cho ngân hàng số tiền: 43.387.884 đồng tính đến ngày 24/11/2020, trong đó tiền gốc: 32.222.222 đồng, tiền lãi: 2.542.466 đồng và quá hạn: 8.623.196 đồng. Đồng thời yêu cầu trả lãi phát sinh tính từ ngày 25/11/2020 trên dư nợ gốc cho đến khi thanh toán dứt nợ. Tiếp tục duy trì hợp đồng cầm cố và trường hợp ông Đ, bà T không trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ.

- Bị đơn bà Hồ Như T trình bày theo tự khai ngày 15/12/2020:

Bà xác định bà và ông Đ có ký kết hợp đồng tín dụng kiêm cầm cố số HT- A876937/HĐTD/CC và số HT-A876946/HĐTD/CC ngày 09/9/2019 để vay tổng số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), thời hạn vay 180 ngày (10/9/2019 – 08/3/2020), lãi suất 16%/năm. Tài sản cầm cố bảo đảm nợ vay là xe 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Future, biển kiểm soát: 67D1 – 772.56 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 057125 do Công an tỉnh An Giang cấp ngày 09/7/2018 đứng tên ông Nguyễn Hữu Đ; xe máy 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát: 67D1-231.98 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 024192 cấp ngày 04/5/2013.

Phía ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký xe, về chiếc xe ngân hàng giao cho ông bà quản lý sử dụng.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng, bà đồng ý cùng ông Đ chịu trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết nhưng bà xin được xoá lãi và trả dần vốn vay.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu ông Đ, bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng số tiền 44.150.624 đồng (bốn mươi bốn triệu, một trăm năm mươi ngàn, sáu trăm hai mươi bốn đồng), trong đó vốn vay là:

32.222.222 đồng, lãi trong hạn: 2.542.466 đồng, lãi quá hạn: 5.826.484 đồng. Và ông Đ, bà T phải chịu tiền lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ. Nếu ông bà không thực hiện việc trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu thi hành án xử lý tài sản cầm cố để thu hồi nợ. Việc xoá lãi hay trả dần thì ngân hàng sẽ xem xét tại giai đoạn thi hành án.

Bị đơn bà T: đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng nhưng xin xoá lãi và xin được trả dần nhưng bà không trình bày được phương thức trả dần. Bà đồng ý giao tài sản cầm cố cho ngân hàng xử lý thu hồi nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng TMCP KL khởi kiện về tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với ông Nguyễn Hữu Đ, bà Hồ Như T cư trú tại huyện Châu Phú nên Tòa án nhân dân huyện Châu Phú thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo qui định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thủ tục tố tụng: ông Đ dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Đ là phù hợp với qui định pháp luật tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về hợp đồng tín dụng: Ngân hàng yêu cầu ông Đ và bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng tổng số tiền là số tiền 44.150.624 đồng (bốn mươi bốn triệu, một trăm năm mươi ngàn, sáu trăm hai mươi bốn đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 30/12/2020 trên dư nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hợp đồng tín dụng trên.

[2.2] Ông Đ tuy đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông đến tham gia hoà giải, xét xử cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến xem như ông tự từ bỏ quyền lợi của bản thân. Bà T thừa nhận việc ký kết hợp đồng và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ngân hàng.

[2.3] Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp như hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT-A876937/HĐTD/CC và số HT- A876946/HĐTD/CC ngày 09/9/2019 và sự thừa nhận của bà T, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa ông Đ, bà T và ngân hàng TMCP KL – PGD Châu Đốc có xác lập hợp đồng tín dụng để vay tổng số tiền 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng), theo đó ông Đ là người vay, bà T là người liên đới chịu trách nhiệm và ông Đ, bà T có mối quan hệ vợ chồng. Việc giao dịch này hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với qui định pháp luật nay ông Đ, bà T vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo điều 2 của hợp đồng tín dụng. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đ, bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng TMCP KL số tiền 44.150.624 đồng (bốn mươi bốn triệu, một trăm năm mươi ngàn, sáu trăm hai mươi bốn đồng), trong đó vốn vay là: 32.222.222 đồng, lãi trong hạn: 2.542.466 đồng, lãi quá hạn: 5.826.484 đồng.

[2.4] Đồng thời, ông Đ và bà T cùng có nghĩa vụ liên đới trong việc tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo Điều 2 của hai hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố nêu trên tính từ ngày 30/12/2020 cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hợp đồng tín dụng trên.

[2.5] Tại phiên toà, bà T xin được xoá tiền lãi và trả dần vốn vay nhưng bà không nêu được phương thức trả dần cụ thể và phía nguyên đơn cũng không đồng ý do đó không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận. Về thời gian và phương thức thanh toán sẽ được thực hiện tại giai đoạn thi hành án.

[2.6] Về hợp đồng cầm cố: Tài sản cầm cố bảo đảm nợ vay là xe 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe Future, biển kiểm soát: 67D1 – 772.56 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 057125 do Công an tỉnh An Giang cấp ngày 09/7/2018 đứng tên ông Nguyễn Hữu Đ; xe máy 02 bánh nhãn hiệu Honda, loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát: 67D1-231.98 theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 024192 cấp ngày 04/5/2013. Xét thấy, việc cầm cố được lập thành văn bản theo Điều 3 của hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT-A876937/HĐTD-CC ngày 09/9/2019 và theo quy định tại điều 310 Bộ luật dân sự 2015, hợp đồng cầm cố phát sinh hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hội đồng xét xử xét thấy, việc cầm cố trên phù hợp với quy định của pháp luật và nay yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với hợp đồng tín dụng được chấp nhận. Do đó, việc tiếp tục duy trì việc cầm cố theo hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT-A876937/HĐTD-CC ngày 09/9/2019 là phù hợp để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong trường hợp ông Đ, bà T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử lý tài sản bảo đảm đối với hợp đồng cầm cố để thu hồi nợ.

[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của ngân hàng được chấp nhận nên ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả tạm ứng án phí đã nộp cho ngân hàng. Ông Đ, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 147, điều 227, điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 463, Điều 466, điều 309,điều 310, điều 311 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2 Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP KL.

Buộc ông Nguyễn Hữu Đ, bà Hồ Như T cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng TMCP KL số tiền: số tiền 44.150.624 đồng (bốn mươi bốn triệu, một trăm năm mươi ngàn, sáu trăm hai mươi bốn đồng), trong đó vốn vay là: 32.222.222 đồng, lãi trong hạn: 2.542.466 đồng, lãi quá hạn: 5.826.484 đồng.

Ông Nguyễn Hữu Đ, bà Hồ Như T cùng có nghĩa vụ liên đới tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo Điều 2 của hai hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT- A876937/HĐTD/CC và số HT-A876946/HĐTD/CC ngày 09/9/2019 tính từ ngày 30/12/2020 cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối với hai hợp đồng tín dụng.

Nếu ông Đ, bà T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, không đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng tín dụng kiêm hợp đồng cầm cố số HT-A876937/HĐTD-CC ngày 09/9/2019 để thu hồi nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Hữu Đ, bà Hồ Như T cùng phải chịu 2.207.500 đồng (hai triệu, hai trăm lẻ bảy ngàn, năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP KL số tiền 1.613.000 đồng (một triệu, sáu trăm mười ba ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003804 ngày 29/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

Ngân hàng TMCP KL và bà Hồ Như T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Hữu Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 265/2020/DS-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:265/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về