Bản án 264/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 264/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 259/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 501/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1993; ĐKHKTT: Xóm 1, thôn Dư Xá, xã H, huyện U, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Xóm 1, thôn Dư Xá, xã H, huyện U, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N và bà Đỗ Thị N; có vợ là Lê Thị H T và 01 con; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 12/2016/HSST ngày 11/3/2016, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa nộp tiền phạt bổ sung 5.000.000 đồng và tiền hưởng lợi bất chính do phạm tội mà có 5.000.000 đồng. Ra trại ngày 28/3/2017. Danh chỉ bản số 398 lập ngày 11/9/2020 tại Công an quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 09/9/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1. Anh Đỗ Văn Q, sinh năm 1988 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Kê Sơn 2, xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng.

2. Chị Đỗ Thị Kim X, sinh năm 1975 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Trú tại: Tổ dân phố 12, Mậu Lương, phường K, quận H, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 06/9/2020, Nguyễn Văn T đi xe buýt từ nhà tại thôn Dư Xá, xã H, huyện U, thành phố Hà Nội đến khu vực phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội với mục đích trộm cắp tài sản. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, T đi bộ vào khu vực ngõ 495 Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Nam, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội phát hiện đối diện nhà số 1 ngõ 495/3 Nguyễn Trãi có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ-đen-bạc, BKS: 15K1-299.02, SK: RLHHC1200BY001716, SM: HC12E2801737 của anh Đỗ Văn Q, T tiến lại gần chiếc xe và phát hiện khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện, xe không khóa càng, thấy không có ai trông giữ T đã trộm cắp chiếc xe trên và điều khiển xe máy về xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội bán cho Nguyễn Mạnh Đông với giá 3.000.000 đồng.

Sau khi bị mất trộm tài sản, anh Đỗ Văn Q đã đến cơ quan công an để trình báo. Cơ quan công an đã tiến hành rà soát camera quanh khu vực xảy ra vụ việc, phát hiện có 01 đối tượng mặc áo chống nắng dài tay màu đỏ, quần lửng màu xanh đen, đi dép lê, đeo khẩu trang y tế trộm cắp xe máy của anh Q. Ngày 08/9/2020, Cơ quan công an phát hiện Nguyễn Văn T đang đi bộ tại khu vực ngõ 495 Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giống với đối tượng trộm cắp tài sản ngày 06/9/2020 nên đã tiến hành kiểm tra hành chính, đưa T về trụ sở làm việc.

Tại cơ quan điều tra, T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Cơ quan công an thu giữ của Nguyễn Văn T: 01 áo chống nắng dài tay màu đỏ, 01 đôi dép lê màu trắng, cam đế màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng, 01 quần lửng màu xanh đen là trang phục mà T đã mặc khi trộm cắp xe máy của anh Q ngày 06/9/2020.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 372/KLĐG ngày 15/9/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận Thanh Xuân kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ-đen-bạc, BKS: 15K1-299.02, số khung: 1200BY001716, số máy: HC12E2801737 có giá là 8.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra còn làm rõ Nguyễn Văn T đã thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản khác trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội cụ thể: Khoảng 12 giờ ngày 07/9/2020, Nguyễn Văn T đi xe buýt từ nhà đến khu vực Bưu điện Hà Đông xem ai có sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 17 giờ cùng ngày, T đi bộ đến khu vực Đồng Dưa, phường Hà Cầu, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội phát hiện cạnh nhà có xe máy Honda, màu trắng - đen, BKS: 30K2-9165, SK: 493043, SM: 2249702 của chị Đỗ Thị Kim X dựng cạnh nhà số LK03-NO19 không người trông giữ. T dùng chiếc tua vít nhặt được trên đường (hiện không thu hồi được) phá ổ khóa điện và trộm cắp chiếc xe trên, T đi xe về bán cho Nguyễn Mạnh Đông với giá 2.700.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 419/KL-HĐĐGTS ngày 23/10/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận Thanh Xuân kết luận: 01 chiếc xe mô tô Honda Wave RSX, màu trắng - đen, BKS: 30K2-9165, số khung: 493043, số máy: 2249702 có giá là 7.000.000 đồng.

Đối với Nguyễn Mạnh Đông, không thừa nhận đã tiêu thụ 2 chiếc xe máy mà T đã trộm cắp. Tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xử lý Đông về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Hiện nay, Đông không có mặt tại nơi cư trú, cơ quan điều tra đã tách hành vi của Đông để điều tra làm rõ và xử lý sau.

Hai chiếc xe máy mà T trộm cắp hiện không thu hồi được. Anh Đỗ Văn Q yêu cầu bồi thường 8.000.000 đồng, chị Đỗ Thị Kim X yêu cầu bồi thường 7.000.000 đồng tương đương với giá trị xe bị mất.

Đối với số tiền bán xe máy do trộm cắp mà có, Nguyễn Văn T khai dùng để mua ma túy về sử dụng và tiêu xài cá nhân. Đối với người bán ma túy cho T, do T khai không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Tại bản cáo trạng số 245/CT-VKSTX ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đã nêu, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 22 tháng tù đến 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay liền mũ màu đỏ đậm (loại áo chống nắng), 01 đôi dép lê màu trắng-cam- đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 quần lửng màu đen - xanh. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự: Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Đỗ Văn Q số tiền 8.000.000 đồng, bồi thường cho chị Đỗ Thị Kim X số tiền 7.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận: Ngày 06/9/2020, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Văn T đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ-đen-bạc, BKS: 15K1-299.02, trị giá 8.000.000 đồng của anh Đỗ Văn Q.

Ngày 07/9/2020, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, Nguyễn Văn T đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô Honda Wave RSX, màu trắng - đen, BKS: 30K2-9165, trị giá 7.000.000 đồng của chị Đỗ Thị Kim X.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội.

Bị cáo T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo T có 01 tiền án chưa được xóa án tích, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật, vì vậy cần phải có hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay liền mũ màu đỏ đậm (loại áo chống nắng), 01 đôi dép lê màu trắng-cam- đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 quần lửng màu đen - xanh.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Đỗ Văn Q yêu cầu bị cáo T bồi thường giá trị 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ-đen-bạc, BKS: 15K1-299.02 là 8.000.000 đồng; chị Đỗ Thị Kim X yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị 01 chiếc xe mô tô Honda Wave RSX, màu trắng - đen, BKS: 30K2-9165 là 7.000.000 đồng. Xét yêu cầu của anh Đỗ Văn Q và chị Đỗ Thị Kim X là phù hợp pháp luật nên buộc bị cáo T có trách nhiệm bồi thường 8.000.000 đồng cho anh Đỗ Văn Q và bồi thường 7.000.000 đồng cho chị Đỗ Thị Kim X.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/9/2020.

3. Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, danh mục án phí kèm theo.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo dài tay liền mũ màu đỏ đậm (loại áo chống nắng), 01 đôi dép lê màu trắng-cam- đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 quần lửng màu đen - xanh. Hiện vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/12/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải bồi thường cho anh Đỗ Văn Q số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), bồi thường cho chị Đỗ Thị Kim X số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 264/2020/HS-ST ngày 16/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:264/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về