TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 263/2019/HS-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 185/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2986/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Khắc T, giới tính: Nam, sinh năm: 1969 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký HKTT: 3/42 TT, Phường MB, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Khắc T1 (chết) và bà Vương Thị Bích H; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2004; tiền sự: không;
Tiền án: Ngày 12/8/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 14 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/2/2018;
Bị bắt tạm giam từ ngày 26/6/2018 (có mặt).
2. Nguyễn Thành P, giới tính: Nam, sinh năm: 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký HKTT: 73/9A TH, Phường MB, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 95C NVĐ, Phường N, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: thợ mộc; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn T2 (chết) và bà Huỳnh Thị S;
hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền sự: không Tiền án: Ngày 30/11/2009 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/12/2015;
Nhân thân:
+ Ngày 28/12/1989 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân”. Ngày 26/4/1990 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao xử phúc thẩm, y án sơ thẩm.
+ Ngày 24/8/1995 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân”.
Bị bắt tạm giam từ ngày 25/6/2018 (có mặt).
Người bào chữa: Ông Nguyễn Quang Vũ - Luật sư của Công ty Luật TNHH Đại Việt thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Khắc T (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Ngọc T3, sinh năm 1983.
Địa chỉ: 36 TV, Phường S, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 6/2018, Nguyễn Khắc T bắt đầu mua ma túy của đối tượng tên Mẫn (không rõ lai lịch) để bán lại cho người khác kiếm lời. T đã 02 lần lần mua ma túy đá của Mẫn, cụ thể: Lần thứ nhất vào ngày 15/6/2018 mua 30 gram với giá 12.600.000 đồng và lần thứ hai vào ngày 20/6/2018 mua 100 gram với giá 42.000.000 đồng, đều mua bán tại khu vực chân cầu vượt trên đường 3/2 giao với đường NTP, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.
Số ma túy trên, T vừa sử dụng vừa phân lẻ thành nhiều bịch nhỏ có khối lượng khác nhau rồi đem bán cho đối tượng nghiện (không rõ lai lịch) trong đó có Nguyễn Thành P, cụ thể:
+ Lần thứ nhất vào ngày 16/6/2018, T bán cho P 1 hộp 5 ma túy đá với giá 2.200.000 đồng, giao dịch tại khu vực Bệnh viện TD, Quận M.
+ Lần thứ hai vào ngày 24/6/2018, T bán cho P 1 hộp 5 ma túy đá với giá 2.200.000 đồng, giao dịch tại khu vực Bệnh viện TD, QM.
+ Lần thứ ba vào ngày 24/6/2018, T bán cho P 1 hộp 10 ma túy đá với giá 4.400.000 đồng, giao dịch tại khu vực Bệnh viện TD, QM. P chưa bán số ma túy trên cho người nghiện thì ngày 25/6/2018 Cu Lì (không rõ lai lịch) điện thoại đặt mua của P 02 hộp 10 ma túy với giá 5.000.000 đồng, hẹn giao ma túy tại đường Lê Văn S, quận PN. Do chỉ có 01 hộp 10 ma túy nên P liên lạc với T đặt mua thêm 01 hộp 10 ma túy với giá 4.400.000 đồng, giao dịch tại Bệnh viện TD. Khoảng 19 giờ 55 phút ngày 25/6/2018, P đem theo 01 hộp 10 ma túy đến gặp T nhưng chưa kịp gặp thì bị bắt quả tang trước nhà số 02 Lê Văn S, Phường MM, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ 01 hộp 10 ma túy, qua giám định có khối lượng 9,9531 gram loại Methamphetamine.
Ngày 26/6/2018 T điều khiển xe gắn máy đến khu vực đường Lê Văn Sỹ dể bán 01 hộp 10 ma túy cho P thì bị bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên trái của T 01 gói nylon chứa ma túy qua giám định có khối lượng 89,5310 gram loại Methamphetamine.
Tại Bản cáo trạng số 118/CT-VKS-P1 ngày 18/3/2019 và Đính chính cáo trạng số 06/CT-VKS-P1 ngày 06/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Khắc T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo Nguyễn Thành P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa nêu quan điểm luận tội:
- Giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng.
- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt:
+ Bị cáo Nguyễn Khắc T 20 năm tù, nộp phạt số tiền 20.000.000 đồng.
+ Bị cáo Nguyễn Thành P từ 09 đến 10 năm tù, nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Khắc T nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh như cáo trạng truy tố tuy nhiên đối với lần mua bán thứ 3 mặc dù P khai mua của T nhưng T không thừa nhận. Đồng thời, tại phiên tòa P cũng khai bản thân thu nhập chỉ hơn 3.000.000 đồng/tháng do đó không thể có đủ tiền mua 01 lần 10 gram ma túy với giá 4.400.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử loại trừ số ma túy bắt quả tang của P khi xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định và các biên bản hoạt động điều tra khác ... có đủ cơ sở xác định trong tháng 6/2018 Nguyễn Khắc T nhiều lần bán ma túy đá cho Nguyễn Thành P để P bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời, nguồn gốc ma túy T mua của đối tượng tên Mẫn (không rõ lai lịch). Ngày 25/6/2018, P đen theo 9,9531 gram ma túy loại Methamphetamine (đã mua trước đó của T) đến gặp T để mua thêm ma túy bán lại cho người nghiện thì bị bắt quả tang. Ngày 26/6/2018, T trên đường đi bán ma túy cho P thì bị bắt quả tang thu giữ 89,5310 gram ma túy loại Methamphetamine. Ngoài ra, trước đó T còn 02 lần bán ma túy cho P, mỗi lần 01 hộp 5 gram ma túy loại Methamphetamine.
Tại phiên tòa bị cáo T và luật sư bào chữa cho rằng số ma túy bắt quả tang của bị cáo P không phải do bị cáo T bán là không có căn cứ bởi lẽ xuyên suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo P đều xác nhận số ma túy trên của bị cáo T. Lời khai này phù hợp với lời khai của bị cáo T trong giai đoạn điều tra. Việc bị cáo khai nại tại phiên tòa nhằm trốn tránh trách nhiệm là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Với các tình tiết đã được chứng minh tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Khắc T và Nguyễn Thành P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Nguyễn Khắc T phải trách nhiệm về tổng khối lượng ma túy đã bán cho Nguyễn Thành P và qua thu giữ quả tang, tổng cộng 109,4841 gram ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine. Bị cáo đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, cần áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Bị cáo Nguyễn Thành P phải chịu trách nhiệm về số ma túy đã mua của Nguyễn Khắc T và qua thu giữ quả tang, tổng cộng 19,9531 gram ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine. Bị cáo đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, cần áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sụ để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng.
Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cân nhắc quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều có thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên xem xét giảm cho các bị cáo một mức hình phạt như lời bào chữa của luật sư là có cơ sở chấp nhận.
Ngoài hình phạt chính, buộc các bị cáo nộp phạt một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.
[4] Về vật chứng của vụ án:
- Ma túy, túi xách màu đen và vỏ điện thoại di động không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- Điện thoại di động các bị cáo sử dụng liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- Số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo P, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Đối với chiếc xe máy hiệu Honda Airblade, biển số 53Z2 – 0787 thu giữ của bị cáo T. Quá trình điều tra xác định bà Nguyễn Thị Ngọc T3 đã làm thủ tục mua xe theo đúng quy định nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Bà T3 cho T mượn và không biết T thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bà T3.
- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Honda, biển số 59U1 - 531.31 không xác định được số khung, số máy nguyên thủy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Khắc T, Nguyễn Thành P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/6/2018.
Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 20.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.
- Áp dụng điểm i, q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành P 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/6/2018.
Buộc bị cáo P nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.
- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
* Tịch thu, tiêu hủy:
+ 01 gói giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1112/18 PN (gói 2) có chữ ký của giám định viên Trung tá Phan Hoàng Trạc và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định;
+ 01 gói giấy niêm phong, bên ngoài ghi vụ 1112/18 PN (gói 1) có chữ ký của giám định viên Trung tá Phan Hoàng Trạc và cán bộ điều tra Trần Xuân Trọng, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi giám định;
+ 01 vỏ điện thoại di động hiệu Microsoft.
+ 01 túi xách màu đen;
* Tịch thu sung quỹ Nhà nước:
+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số Imei 1: 3573 4408 1101 561, số Imei 2: 3573 4308 1581 566, kèm 01 sim;
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, số Imei: 013621005830763, kèm 01 sim.
+ 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại: không xác đinh; biển số 59U1 - 531.31, số khung: RLHJF4606DY056341, số máy: JF46E-0056381.
* Trả lại cho bà Nguyễn Thị Ngọc T3: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, số loại: Airblade, biển số 53Z2 - 0787, số khung: RLHJF18067Y540851, số máy: JF18E-5040964.
* Tạm giữ số tiền 200.000 đồng để đảm bảo thi hành án nghĩa vụ nộp phạt của bị cáo Nguyễn Thành P.
(Biên bản giao nhận tang tài vật số 199/19 ngày 06/3/2019 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 05/9/2018).
Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 263/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 263/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về