Bản án 26/2022/HS-ST ngày 19/04/2022 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2022/TLST-HS ngày 31/3/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 06/4/2022 đối với bị cáo Vàng Thị D, sinh ngày 18/8/1964, tại xã MC, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; cư trú tại bản S, xã MC, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Vàng A T và bà Giàng Thị A (đều đã chết), chồng là Giàng A V (đã chết), bị cáo có 09 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân Thân: Nghiện ma túy, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2021 đến ngày xét xử, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 04/12/2021 sau khi khám bệnh tại bệnh viện đa khoa huyện Phù Yên xong Vàng Thị D ra cổng để về nhà thì gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua nói chuyện thì người đàn ông đó nói là muốn bán ma túy nên D bảo cho xem và đã nhất trí mua với người đàn ông đó 01 lọ nhựa màu trắng bên trong đựng viên hồng phiến và heroine với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng), D đem về cất ở nhà, mỗi ngày sử dụng 02 viên hồng phiến và một ít heroine. Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 16/12/2021 sau khi sử dụng xong bị cáo cầm chiếc lọ nhựa đựng ma túy đó ra cổng nhà thì bị Công an xã MC, huyện Phù Yên kiểm tra, phát hiện, bắt giữ. Thu 01 lọ nhựa màu trắng đựng viên hồng phiến và chất bột màu trắng.

Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng sự có mặt của Vàng Thị D và người làm chứng tiến hành mở niêm phong, cân tịnh 108 viên màu hồng có khối lượng là 10,357gam và 2,678gam chất bột màu trắng. Tổng khối lượng thu của Vàng Thị D là 13,035 gam. Lấy 05 viên màu hồng ký hiệu D1= 0,494 gam và lấy 2,678gam chất bột màu trắng ký hiệu D3 gửi giám định. Vật chứng còn lại 103 viên màu hồng, ký hiệu D2 = 9,863 gam.

Kết luận giám định số 58 ngày 21/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La:

Mẫu gửi giám định 0,494 gam, ký hiệu D1 là ma túy, loại Methamphetamine;

Mẫu gửi giám định 2,678 gam, ký hiệu D3 là ma túy, loại heroine.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ 10,357gam là Methamphetamine và 2,678 gam là heroine.

Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 30/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La truy tố bị can Vàng Thị D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Vàng Thị D khai nhận: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 04/12/2021 Sau khi khám bệnh tại bệnh viện đa khoa huyện Phù Yên ra cổng để về nhà thì gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua nói chuyện thì người đó nói muốn bán ma túy và cho bị cáo xem 01 lọ nhựa màu trắng bên trong đựng nhiều viên màu hồng và 01 viên chất bột màu trắng, sau khi trao đổi người đó nhất trí bán với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng), bị cáo đem về nhà mỗi ngày sử dụng 02 viên hồng phiến và một ít chất bột màu trắng. Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 16/12/2021 sau khi sử dụng xong bị cáo cầm chiếc lọ nhựa đó ra cổng nhà thì bị Công an xã MC, huyện Phù Yên kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 lọ nhựa màu trắng đựng ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên Quyết định như Cáo trạng đã truy tố đối với bị caó Vàng Thị D và đề nghị áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vàng Thị D từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù, tính từ ngày bị bắt 16/12/2021 và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại 9,863 gam Methamphetamine ký hiệu D2 và 1,47 gam Methamphetaminem ký hiệu D3 do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La hoàn trả mẫu gửi giám định; 02 túi nilon màu trắng; 01 lọ nhựa màu trắng; 02 chiếc phong bì của Công an huyện Phù Yên và 01 chiếc phong bì đã sử dụng niêm phong vật chứng khi bắt quả tang.

Án phí hình sự sơ thẩm: Gia đình bị cáo là hộ nghèo năm 2022 của xã MC, huyện Phù Yên, đề nghị miễn đối với bị cáo theo quy định.

Bị cáo tranh luận tại phiên tòa, nhất trí với Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa và đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành Tố tụng, người tiến hành Tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan tiến hành Tố tụng và người tiến hành Tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố bị cáo theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định về ma túy và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, cả về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng của vụ án thu được.

[4]. Đối với người đàn ông dân tộc Mông bán ma túy cho bị cáo, do không biết họ, tên, địa chỉ nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên không có cơ sở để tiến hành xác minh, điều tra để xử lý trong vụ án.

Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên, đủ cơ sở khách quan để kết luận: Bị cáo Vàng Thị D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[5]. Tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng do nghiện ma túy nên bị cáo mua với mục đích để sử dụng ngoài ra không có mục đích khác.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, sức khỏe yếu, gia đình đông con, là hộ nghèo, không biết chữ, nhận thức pháp luật hạn chế, thuộc các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

[7]. Nhân thân của bị cáo: Là đối tượng nghiện ma túy, chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã cư trú.

Tình hình tội phạm về ma tuý trên địa bàn huyện Phù Yên vẫn diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ, mặc dù đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương tuyên truyền, vận động nói không với ma tuý. Tuy nhiên, thực tế vẫn chưa có chuyển biến tích cực, tiềm ẩn phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm từ các hành vi Tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy. Để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm, cần xử lý nghiêm, kịp thời đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[8]. Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung (phạt tiền). Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh bị cáo là hộ nghèo. Do đó, không áp dụng đối với bị cáo.

[9].Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, cư trú không ổn định, cần tiếp tục tạm giam bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự để đảm bao công tác thi hành án hình sự.

[10]. Vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 9,863 gam Methamphetamine ký hiệu D2 và 1,47 gam Methamphetamine ký hiệu D3 do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La hoàn trả mẫu gửi giám định; 02 túi nilon màu trắng; 01 chiếc lọ nhựa màu trắng và 02 chiếc phong bì của Công anh huyện Phù Yên và 01 chiếc phong bì đã sử dụng niêm phong vật chứng vụ án khi bắt quả tang.

Cần chấp nhận Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã sử dụng hết mẫu gửi giám định 2,678 gam heroine trong quá trình giám định.

[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Gia đình bị cáo là hộ nghèo năm 2022 của UBND xã MC, huyện Phù Yên. Cần miễn đối với bị cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm n khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

2. Tuyên bố bị cáo Vàng Thị D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Vàng Thị D 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/12/2021.

Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 9,863 gam Methamphetamine, ký hiệu D2 và 1,47 gam Methamphetamine, ký hiệu D3; 02 túi nilon màu trắng; 01 chiếc lọ nhựa màu trắng; 02 chiếc phong bì niêm của Công an huyện Phù Yên và 01 chiếc phong bì đã sử dụng niêm phong vật chứng vụ án khi bắt quả tang.

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Miễn toàn bộ đối với bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
  • Tên bản án:
    Bản án 26/2022/HS-ST ngày 19/04/2022 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    26/2022/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    19/04/2022
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2022/HS-ST ngày 19/04/2022 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về