Bản án 26/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:20/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 36/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Quang M, sinh ngày 11 tháng 7 năm 1999 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã M, huyện N, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Nhân viên; Học vấn9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Nam Đ; con bà: Lê Ngọc O; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lê Văn T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: thị trấn K, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

2. Ông Trương Thái B, sinh năm 1984; Nơi cư trú: đường F, xã P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Quang M là nhân viên phục vụ quán nhậu “Bia Tươi”, số 152A Tạ Quang Bửu, Phường 3, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào tối ngày 26 tháng 10 năm 2020, do quán nhậu nghỉ bán nên M cùng một số người bạn đi uống nước tại một quán nước (không rõ địa chỉ) trên đường Nguyễn Duy, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi uống nước xong ra về, M nhìn thấy dưới đất trước cửa quán có một gói nylon bên trong có chứa tinh thể không màu, M biết là ma túy vì M đã từng sử dụng nên nhận biết được. M nhặt gói nylon chứa tinh thể không màu rồi cất vào bóp da màu đen, để ở túi quần phía sau bên phải rồi điều khiển xe đi tìm quán ăn tối. Đến khoảng 22 giờ 25 phút cùng ngày, khi Trần Quang M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wayec, biển số 83H7-7039 đến trước nhà số 40 Nguyễn Tri Phương, Phường 6, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Tổ tuần tra 363 Công an Quận 5 kiểm tra phát hiện M có cất giấu ma túy trong người nên bàn giao M cùng vật chứng về Công an Phường 6, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản phạm tội quả tang. Qua kiểm tra, Trần Quang M dương tính với ma túy.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trần Quang M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Quang M và hình dấu Công an Phường 6, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3059g (không phẩy ba không năm chín gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1874/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Trần Quang M); 01 (một) xe mô tô loại xe Wayec, biển số 83H7-7039, số khung: H6MM71622959, số máy: 52FMH622959; 01 (một) điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, số Imei: 351590/10/251761/7, số Imei: 351591/10/251761/5.

Tại bản Kết luận giám định số 1874/KLGĐ-H ngày 03/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Quang M và hình dấu Công an Phường 6, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3059g (không phẩy ba không năm chín gam), loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số: 26/CT-VKSQ5 ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Quang M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Quang M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Quang M với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù; về vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo Trần Quang M không có ý kiến bào chữa, không tranh luận và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Trần Quang M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, bị cáo Trần Quang M đã có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,3059g (không phẩy ba không năm chín gam), loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng là đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, biết việc tàng trữ trái phép các chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật mà Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý tàng trữ chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây nghiện và độc hại; gây mất trật tự xã hội ở địa phương, còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo; nhằm mục đích giáo dục bị cáo, bên cạnh đó có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định, để bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Trần Quang M là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Quang M và hình dấu Công an Phường 6, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3059g (không phẩy ba không năm chín gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1874/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Trần Quang M). Xét đây là vật phạm pháp, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

01 (một) điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, số Imei:351590/10/251761/7, số Imei: 351591/10/251761/5. Xét đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo M.

01 (một) xe mô tô loại xe Wayec, biển số 83H7-7039, số khung: H6MM71622959, số máy: 52FMH622959 do ông Lê Văn T đứng tên chủ sở hữu, ông T đã bán lại cho Trương Thái B, không làm thủ tục sang tên, ông B đưa xe cho bị cáo M mượn, không liên quan đến hành vi phạm tội của M nên xem xét trả lại cho ông B.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51;Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Quang M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 10 năm 2020.

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói nylon chứa tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Quang M và hình dấu Công an Phường 6, Quận 5 (ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3059g (không phẩy ba không năm chín gam), loại Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định được gói niêm phong số 1874/2020/Q5, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và Trần Quang M).

Trả lại cho bị cáo Trần Quang M: 01 (một) điện thoại di động Samsung màu vàng đồng, số Imei: 351590/10/251761/7, số Imei: 351591/10/251761/5.

Trả lại cho ông Trương Thái B; 01 (một) xe mô tô loại xe Wayec, biển số 83H7-7039, số khung: H6MM71622959, số máy: 52FMH622959.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.

Bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 26/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về