Bản án 26/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 743/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 782/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Thanh S; Tên gọi khác: N; Giới tính: Nam; Sinh ngày 19 tháng 10 năm 1986, tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: Tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Tự do; Chức vụ, đảng phái: Không; Họ và tên cha: Nguyễn Chu Du, sinh năm 1959 (đã chết); Họ và tên mẹ: Trần Thị Thu, sinh năm 1961 (còn sống); Bị cáo là con út trong gia đình có ba anh em và chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 22/10/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Chưa xóa án tích); Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/11/2003, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 14 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”; Ngày 06/12/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”; Ngày 17/06/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 06 năm tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/10/2020, sau đó chuyển tạm giam theo Lệnh số 1399/CSĐT-ĐTTH ngày 27/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa. (có mặt) - Bị hại: Ông Lê Phương V, sinh năm 1996.

Địa chỉ: Khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Nguyễn Thanh S là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Vào khoảng 08 giờ ngày 20 tháng 10 năm 2020, S đi đến công trình đang xây nhà ở gần nhà S tại tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai gặp anh Lê Phương V (sinh năm 1996, ngụ tại khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) là phụ hồ tại công trình hỏi xin xi măng để về làm hồ cá thì được anh V đồng ý. Tại đây, S phát hiện trên baga xe môtô của anh V đang dựng gần đó có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5A 16Gb màu xám nên S nảy sinh ý định lấy trộm. Thực hiện ý định trên, lợi dụng lúc anh V đi ra phía sau nhà, S liền lén lút lấy chiếc điện thoại trên của anh V giấu vào trong cạp quần phía trước bụng rồi lấy xi măng và đi về nhà. Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, anh V xem lại camera tại công trình thì biết được S là người đã thực hiện nên đã trình báo Công an phường T lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa khởi tố, điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5A 16Gb màu xám (số imei 1: 865395033477561, số imei 2: 865395033477579) có gắn sim số 0326200442, thu giữ của bị cáo S, là tài sản của anh Lê Phương V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho anh V;

- 01 thiết bị lưu trữ (USB) hiệu Kingston DT101 G2 8GB, anh V giao nộp, có lưu trữ file ghi hình liên quan đến hành vi trộm cắp của bị cáo S, được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 467/KL-HĐĐGTS ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5A 16Gb, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 30%, trị giá 597.000 đồng (Năm trăm chín mươi bảy nghìn đồng)”.

Về dân sự: Người bị hại anh Lê Phương V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 16/CT-VKSBH-HS ngày 18/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù.

Bị cáo S có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị hại mặc dù đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, lời khai của họ đã đầy đủ và có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá tài sản, biên bản lấy lời khai bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Nguyễn Thanh S là người có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Vào khoảng 08 giờ ngày 20 tháng 10 năm 2020, tại công trình xây dựng thuộc tổ 28, khu phố 3, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, S đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5A 16Gb màu xám, trị giá 597.000 đồng (Năm trăm chín mươi bảy nghìn đồng) của anh Lê Phương V thì bị phát hiện, khởi tố, điều tra xử lý.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 16/CT-VKSBH-HS ngày 18/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “trộm cắp tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo là người không có nghề nghiệp, biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về nhân thân: Bị cáo S đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa kết án nhiều lần về các tội “Cướp tài sản”, “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”, “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo S để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5A 16Gb màu xám (số imei 1: 865395033477561, số imei 2: 865395033477579) có gắn sim số 0326200442, thu giữ của bị cáo S, là tài sản của anh Lê Phương V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi trả lại cho anh V là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- 01 thiết bị lưu trữ (USB) hiệu Kingston DT101 G2 8GB, anh V giao nộp, có lưu trữ file ghi hình liên quan đến hành vi trộm cắp của bị cáo S, được lưu kèm theo hồ sơ vụ án.

[4] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại anh Lê Phương V đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 10 năm 2020.

2. Về án phí:Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh S phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về