Bản án 26/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 02 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2021/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Anh K , sinh năm 1992 tại An Giang; Sinh trú quán: Khóm CT2, phường CP B, thành phố CĐ, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Cao Đài; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Trần Văn Ba (đã chết) và bà Trần Thị Xuân Tr; anh chị em ruột không có; Vợ Nguyễn Thị Thanh Xuân, sinh năm 1991; Có hai con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung với cha mẹ, đi học đến lớp 12 nghỉ, sau đó làm nghề lái xe cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 04/02/2021 đến nay tại nhà Tạm giữ Công an huyện Châu Phú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng:

- Bị cáo: Trần Anh K , sinh năm 1992 tại An Giang; Sinh trú quán: Khóm CT 2, phường CP B, thành phố CĐ, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Cao Đài; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Trần Văn Ba và bà Trần Thị Xuân Tr.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Văn Q , sinh năm 1979; Địa chỉ: khóm 8, phường CP A, thành phố CĐ, tỉnh An Giang. (Có mặt) - Những người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Minh T , sinh năm 1989. Địa chỉ: Nhà tạm giữ - Công an huyện Châu Phú. (Có đơn xin xét xử vắng mặt) + Bà Trần Thị Xuân Tr, sinh năm 1972. Địa chỉ: Khóm CT 2, phường CP B, thành phố CĐ, tỉnh An Giang. (Có mặt) + Ông Trần Văn L , sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp BH, thị trấn CD, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 31/10/2020, nhận được tin báo của quần chúng, lực lượng Công an huyện Châu Phú tiến hành cho dừng 02 phương tiện xe ô tô tải chạy hướng Châu Đốc - Long Xuyên gồm: Xe biển số 67C - 126.55 do Trần Anh K điều khiển, phát hiện bắt quả tang trên xe cất giấu 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (1.500 bao hiệu Hero và 2.500 bao hiệu Jet) ở trong thùng xe sát cabin, được che đậy bằng những bao đường cát trắng; thuốc lá được để trong 16 bọc nilon đen, mỗi bọc đựng 250 bao. Xe biển số 67C - 077.39 do Nguyễn Minh T điều khiển, phát hiện cất giấu 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (1.000 bao hiệu Jet và 2.000 bao hiệu Hero) ở trong thùng xe, sát cabin, được che đậy bằng những bao đường cát trắng; thuốc lá được để trong 12 bọc nilon đen, mỗi bọc đựng 250 bao. Trong lúc kiểm tra phương tiện, Tiến và K bỏ chạy, lực lượng tiến hành truy duổi bắt giữ được Tiến, còn K chạy thoát. Đến ngày 03/01/2021 Trần Anh K ra đầu thú.

Tại Cơ quan điều tra, bị can Trần Anh K khai nhận 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (cất giấu trong 16 bọc nilon đen) do K nhận chở thuê giao cho một người phụ nữ khoảng 40 tuổi ở Cần Thơ (không rõ họ tên, địa chỉ), với giá 25.000 đồng/bọc. Quá trình điều tra K còn khai nhận, trước đó có vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cho chủ quán cà phê An Lê (không rõ họ tên, địa chỉ) 02 lần, mỗi lần 30 - 40 bao; bán cho ông 7 (không rõ họ tên, địa chỉ) 02 lần, một lần 150 bao và một lần 200 bao thuốc lá nhập lậu hiệu Hero.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hồ Văn Q trình bày: Trần Anh K sử dụng ô tô tải biển số 67C - 126.55 chở thuốc lá điếu nhập lậu Q không biết. Q đã nhận lại xe ô tô tải biển số 67C - 126.55 và giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số KD 2137870 biển đăng ký 67C - 126.55.

Những người làm chứng: Nguyễn Minh T , Trần Thị Xuân Tr, Trần Văn L trình bày phù hợp với nội dung vụ án

- Tang vật thu giữ: 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero; 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet; 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, C tên Trần Anh K 890131027687, do Sở Giao thông vận tải An Giang cấp ngày 15/8/2018; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ KD 2137870 biển đăng ký 67C - 126.55 do Trạm đăng kiểm xe cơ giới Châu Đốc thuộc Trung tâm đăng kiểm phương tiện thủy bộ tỉnh An Giang cấp ngày 23/4/2020 (bản chính); 01 (một) xe ô tô tải biển số 67C - 126.55, Nhãn hiệu: HINO, Loại xe ô tô tải có mui, Số loại: FL8JTSL6x2DLMB, Số máy: J08E - UF15243, Số khung: RNJFL8JTSFXX15316, Tải trọng: 14.400 kg, Năm sản suất: 2015 (đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong).

Tại bản cáo trạng số: 20/CT-VKS.CP ngày 26 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển hàng cấm”, theo điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Anh K thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp lời khai trong giai đoạn điều tra, bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú trình bày lời luận tội: Giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo, cụ thể:

- Áp dụng Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt: Bị cáo Trần Anh K từ 03 năm đến 04 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero; 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet;

Trả lại cho bị cáo: 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, C tên Trần Anh K 890131027687, do Sở Giao thông vận tải An Giang cấp ngày 15/8/2018;

Đối với: 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ KD 2137870 biển đăng ký 67C - 126.55 do Trạm đăng kiểm xe cơ giới Châu Đốc thuộc Trung tâm đăng kiểm phương tiện thủy bộ tỉnh An Giang cấp ngày 23/4/2020 (bản chính); 01 (một) xe ô tô tải biển số 67C - 126.55, Nhãn hiệu: HINO, Loại xe ô tô tải có mui, Số loại: FL8JTSL6x2DLMB, Số máy: J08E - UF15243, Số khung: RNJFL8JTSFXX15316, Tải trọng: 14.400 kg, Năm sản suất: 2015 (đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong). Ông Q không biết bị cáo K sử dụng các vật này dùng vào việc vận chuyển hàng cấm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Phú trả lại cho ông Q là đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Phú, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền: Bị cáo thực hiện hành vi vận chuyển hàng cấm và bị bắt trên địa bàn huyện Châu Phú với số lượng 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu theo quy định tại khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Châu Phú xét xử vụ án là đúng thẩm quyền theo quy tại khoản 1 Điều 268 và khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Đối với người tham gia tố tụng: Những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, những người làm chứng đã có lời khai trong quá trình điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về nội dung vụ án: Qua tranh tụng tại phiên tòa và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Anh K vào ngày 30/10/2020 đã có hành vi vận chuyển 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó 1.500 bao hiệu Hero và 2.500 bao hiệu Jet. Bị cáo K thừa nhận, bị cáo lái xe thuê cho ông Q để vận chuyển đường, trong lúc chờ nhận đường để vận chuyển thì có 01 người phụ nữ đến hỏi bị cáo để gửi đồ, khi xác định xe đi hướng về Cần Thơ nên bị cáo cho người phụ nữ biết và hẹn người phụ nữ gửi đồ thì gửi tại cây xăng Khương Dung tại thành phố Châu Đốc, bị cáo biết đồ chính là thuốc lá điếu nhập lậu nhưng vì bị cáo hám lợi nên đồng ý vận chuyển để lấy tiền tiêu xài. Đúng hẹn thì có người mang thuốc lá giao cho bị cáo tại cây xăng, bị cáo đã cất giấu thuốc lá điếu nhập lậu sát cabin xe và chất bao đường lên nhằm che giấu thuốc lá điếu nhập lậu bên trong, số lượng thuốc lá để trong 16 bọc nilon đen, theo bị cáo là thuốc Jet và Hero. Khi xe biển số 67C - 126.55 do Trần Anh K điều khiển, phát hiện bắt quả tang trên xe cất giấu 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (1.500 bao hiệu Hero và 2.500 bao hiệu Jet) ở trong thùng xe sát cabin, được che đậy bằng những bao đường cát trắng; thuốc lá được để trong 16 bọc nilon đen, mỗi bọc đựng 250 bao lưu thông đến địa bàn huyện Châu Phú thì bị bắt, bị cáo sợ nên bỏ chạy trốn, bị cáo trốn sang Campuchia một thời gian rồi được gia đình động viên nên bị cáo về đầu thú.

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bị cáo nhận thức được việc vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi, để có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vận chuyển 1.500 bao hiệu Hero và 2.500 bao hiệu Jet; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản ý kinh tế của nhà nước, gây nguy hiểm cho xã hội, đã cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 191 Bộ luật Hình sự quy định: Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: ...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao;

[5] Các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo đầu thú, có bà ngoại ruột được tặng Huân chương kháng chiến hạng II, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình, nuôi con còn nhỏ nên Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo về hoàn cảnh, nhân thân của bị cáo và là tính tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Lợi dụng việc chở đường cát bị cáo đã nhận vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu, nhằm qua mặt cơ quan chức năng bị cáo còn cất giấu dưới những bao đường cát. Sau khi bị lực lượng chức năng phát hiện, kiểm tra bị cáo đã bỏ trốn sang Campuchia gây khó khăn cho việc điều tra vụ án. Tuy nhiên, bị cáo suy nghĩ để có thêm thu nhập nên đã chấp nhận việc làm vi phạm pháp luật và nghĩ sẽ qua mặt cơ quan chức năng nên nhận vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu thuê cho người khác. Do đó, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử có cân nhắc xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo để áp dụng loại hình phạt, mức hình phạt phù hợp với hành vi của bị cáo.

Căn cứ vào các quy định pháp luật, các yếu tố nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian để đảm bảo tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và đảm bảo sự khoan hồng của pháp luật.

[7] Bị cáo không nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về vật chứng vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero; 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet;

Đối với 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, C tên Trần Anh K 890131027687, do Sở Giao thông vận tải An Giang cấp ngày 15/8/2018. Bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên HĐXX trả lại cho bị cáo.

Đối với: 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ KD 2137870 biển đăng ký 67C - 126.55 do Trạm đăng kiểm xe cơ giới Châu Đốc thuộc Trung tâm đăng kiểm phương tiện thủy bộ tỉnh An Giang cấp ngày 23/4/2020 (bản chính); 01 (một) xe ô tô tải biển số 67C - 126.55, Nhãn hiệu: HINO, Loại xe ô tô tải có mui, Số loại: FL8JTSL6x2DLMB, Số máy: J08E - UF15243, Số khung: RNJFL8JTSFXX15316, Tải trọng: 14.400 kg, Năm sản suất: 2015 (đã qua sử dụng, chưa kiểm tra chất lượng bên trong). Ông Q không biết bị cáo K sử dụng các vật này dùng vào việc vận chuyển hàng cấm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Phú trả lại cho ông Q là đúng quy định của pháp luật hình sự.

[10] Về án phí sơ thẩm:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Anh K phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Anh K 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 04/02/2021.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero; 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet;

Trả lại cho bị cáo: 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, C tên Trần Anh K 890131027687, do Sở Giao thông vận tải An Giang cấp ngày 15/8/2018.

Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/5/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Phú và Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Phú.

2. Về án phí:

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về