Bản án 26/2021/HSST ngày 02/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 26/2021/HSST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 05/2021/HSST ngày 07 tháng 01 năm 2021 - theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. TRỊNH TƯỜNG B; sinh ngày 23 tháng 10 năm 1974 tại Hà Nội; hộ khẩu thường trú: Số 19 N, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội; nơi ở: Số 45 phố Đ, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trịnh Minh H (đã chết) và bà: Nguyễn An T; vợ là Hứa Thanh T (đã ly hôn) và có 01 con (24 tuổi).

Danh chỉ bản số: 443 lập ngày 01/10/2020 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

Tiền án, tiền sự: (không).

Nhân thân: Từ ngày 30/7/1997 đến ngày 23/01/2008 đã 06 lần bị xử phạt hành chính về các hành vi sử dụng, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và đưa vào cơ sở chữa bệnh, giáo dục.

Tạm giữ: 24/09/2020; tạm giam: 03/10/2020. (Có mặt).

2. LƯƠNG HOÀNG S; sinh ngày 11 tháng 06 năm 1983 tại Thái Nguyên; hộ khẩu thường trú: (số cũ) Tổ 8 đường Q, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; (số mới) Số 36, tổ 20 đường Q, phường Q, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương Văn D và bà: Vũ Thị H; chồng là: Đoàn Duy Đ và có 02 con (lớn 21 nhỏ 19 tuổi).

Danh chỉ bản số: 420 lập ngày 29/9/2020 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.

01 Tiền án: Ngày 18/5/2016 Tòa án nhân dân quận Long Biên kết án 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Tiền sự: (không).

Tạm giữ: 24/09/2020; tạm giam: 03/10/2020 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khong 12h35’ ngày 24/9/2020, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận H, Thành phố Hà Nội trong khi làm nhiệm vụ phòng chống tội phạm trên địa bàn, khi đến trước số nhà 463 B, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội, phát hiện Lương Hoàng S đưa 01 vật dạng gói cho Trịnh Tường B đang ngồi trên xe máy Honda Lead màu bạc, biển kiểm soát 30F7 - 8378, nghi vấn hoạt động mua bán trái phép chất ma túy nên Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra thì S và B bỏ chạy theo hai hướng. S bỏ chạy bộ theo hướng B - V, B điều khiển xe máy bỏ chạy theo hướng B - C. Tổ công tác đã tiến hành đuổi theo, bắt giữ được S tại trước số nhà 495 B và bắt giữ được B trước số nhà 445 B, lúc này B thả từ trên tay trái xuống đất 01 vỏ gói bánh màu vàng, Tổ công tác đã tiến hành thu giữ kiểm tra bên trong có 01 cuốn giấy màu trắng chứa 01 túi nylon (kích thước 3x5cm) đựng tinh thể màu trắng, ngay tại chỗ B khai tinh thể màu trắng là ma túy “đá” vừa mua của S với giá 600.000 đồng để bán kiếm lời. Qua kiểm tra người S không thu giữ gì liên quan đến ma tuý, ngay tại chỗ S khai vừa bán 01 túi ma túy “đá” cho B với giá 600.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở Công an phường C để giải quyết.

Ngoài ra, Công an còn thu giữ của Trịnh Tường B:

+ 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu đen, IMEI: 355838087687087, sim số 0914.233.305;

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu bạc BKS: 30F7 - 8378; Số khung: RLHJF24089Y038938; Số máy: JF24E0044511;

+ 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trịnh Tường B.

Thu giữ của Lương Hoàng S: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã cũ, không rõ chất lượng, IMEI: 355396079852375, sim số : 0814.677.526.

Kiểm tra điện thoại có nội dung tin nhắn, cuộc gọi trao đổi mua bán ma tuý “đá” của B và S.

Theo Kết luận giám định số 8631/KLGĐ-PC09 ngày 02/10/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nylon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,869 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trịnh Tường B khai nhận: Khoảng 12h04’ ngày 24/9/2020, B nhận được tin nhắn của một nam thanh niên (không rõ căn cước) có số điện thoại 0564.771.665 đến số 0914.233.305 của B hỏi mua 01 gam ma túy “đá”. B đồng ý bán với giá 800.000 đồng và hẹn giao dịch tại Chùa L, quận T, Thành phố Hà Nội. Sau đó, B nhắn tin và điện thoại cho S vào số 0814.677.526 để hỏi mua 600.000 đồng ma túy “đá” để bán lại cho nam thanh niên trên và hẹn giao dịch mua bán với S tại 529 B, quận H, Thành phố Hà Nội. Tiếp đó, B điều khiển xe máy Honda Lead màu bạc, biển kiểm soát 30F7 - 8378 đến gặp S tại 529 B và chở S đến trước số nhà 463 B rồi dừng lại. Tại đây, S đưa cho B 01 vỏ gói bánh màu vàng, bên trong có 01 cuốn giấy màu trắng chứa 01 túi nylon (kích thước 3x5cm) đựng ma tuý “đá”, khi vừa nhận túi ma tuý từ S thì bị Công an phát hiện nên đã phóng xe máy bỏ chạy và bị kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. Đây là lần đầu tiên B đồng ý bán ma tuý cho nam thanh niên sử dụng số 0564.771.665, do nam thanh niên trên giới thiệu quen biết với người bạn xã hội của B tên H (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ). Nếu bán trót lọt được túi ma tuý “đá” thì B được lời số tiền 200.000 đồng và sẽ trả cho S số tiền 600.000 đồng. Ngoài ra, B khai trước đó đã 02 lần mua ma tuý “đá” của S để sử dụng, nhưng không nhớ thời gian, địa điểm, số lượng và giá cả. Chiếc điện thoại di động Iphone màu đen, kèm sim số 0914.233.305 và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378 và 01 thẻ căn cước công dân là tài sản của B, trong đó điện thoại và xe máy có sử dụng để làm phương tiện trao đổi mua bán ma tuý với S.

Lương Hoàng S khai nhận phù hợp với lời khai của Trịnh Tường B như đã nêu trên. Về nguồn gốc túi ma tuý “đá” Sa bán cho B là do S mua của một người phụ nữ (không rõ căn cước) tại khu vực gầm cầu C với giá 500.000 đồng vào ngày 22/9/2020. Nếu bán được cho B số ma tuý trên, S được lời số tiền 100.000 đồng.

Đây là lần đầu tiên S bán ma tuý cho B.

Chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng đã cũ, kèm sim số 0814.677.526 là tài sản của S, có sử dụng để trao đổi mua bán ma tuý với B.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín tại Tổng Công ty hạ tầng mạng VNPT, xác định số điện thoại 0814.677.526 do Lương Hoàng S sử dụng đứng tên đăng ký là anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội; số điện thoại 0914.233.305 do Trịnh Tường B sử dụng đứng tên đăng ký là anh Trần Huy Q, sinh năm 1995; hộ khẩu thường trú: Số 264 P, phường P, quận H, Thành phố Hà Nội; số điện thoại 0564.771.665 của nam thanh niên hỏi mua ma tuý của B xác định người đăng ký là anh Đỗ Văn C, sinh năm 1996; hộ khẩu thường trú: T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Tại Cơ quan điều tra, anh C, H và anh C khai không đăng ký, quản lý và sử dụng các số điện thoại trên, không liên quan gì đến việc mua bán trái phép ma tuý của S và B. Tiến hành đối chất giữa B và S xác định không ai thay đổi lời khai như đã nêu trên. Căn cứ tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án, chưa đủ cơ sở xác định Lương Hoàng S đã có hành vi nhiều lần bán ma tuý “đá” cho Trịnh Tường B.

Đối với chiếc xe máy Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378, có số khung: RLHJF24089Y038938, số máy: JF24E0044511. B khai mua chiếc xe máy trên của người đàn ông tên A (không rõ căn cước) vào năm 2018 với giá 6.000.000 đồng, khi mua không có giấy tờ mua bán. Qua tra cứu chiếc xe máy trên không có trong dữ liệu phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Giám định tại Phòng PC09 - Công an Thành phố Hà Nội xác định xe máy trên có số khung, số máy là nguyên thủy. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe trên và chuyển theo hồ sơ vụ án để Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về người phụ nữ bán ma túy cho S, nam thanh niên mua ma tuý của B và đối tượng tên H, quá trình điều tra S, B khai không biết rõ căn cước nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 04/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Trịnh Tường B và Lương Hoàng S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa cùng Biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12h35’ ngày 24/9/2020 tại trước cửa số nhà 463 B, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội, Lương Hoàng S đưa 01 gói ma túy cho Trịnh Tường B (Theo kết luận giám định là 0,869 gam Methamphetamine), khi đó B đang ngồi trên xe máy Honda Lead màu bạc, biển số 30F7 – 8378, B chở S ngồi phía sau xe máy của B thì bị Tổ công tác của Công an quận H phát hiện. Cả hai đã bỏ chạy, sau đó S và B bị Tổ công tác bắt giữ. Khi bị bắt, B thả gói ma túy S vừa đưa từ tay xuống đất. Số ma túy này B khai mua của S với giá 600.000 đồng để bán cho khách kiếm lời. S khai gói ma túy S bán cho B là do S mua với giá 500.000 đồng và bán cho B với giá 600.000 đồng. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Trịnh Tường B và Lương Hoàng S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trịnh Tường B với mức án từ 30 đến 36 tháng tù và xử phạt bị cáo Lương Hoàng S với mức án từ 36 đến 42 tháng tù.

Biện pháp tư pháp:

a.Tịch thu, tiêu hủy: 0,869gam Methamphetamine.

b. Sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu đen thu của bị cáo B và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng thu của bị cáo S, do các bị cáo sử dụng điện thoại vào việc phạm tội.

+ Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378; Số khung: RLHJF24089Y038938; Số máy: JF24E0044511, Công an thu giữ của bị cáo B ra thông báo công khai có thời hạn, nếu không có người nhận thì tịch thu xe máy sung quỹ Nhà nước vì bị cáo B sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội.

c. Trả lại cho bị cáo B: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trịnh Tường Bách.

Các bị cáo khai báo thành khẩn, xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Lời khai nhận của Trịnh Tường B và Lương Hoàng S phù hợp nhau; phù hợp với tang vật thu được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, hành vi của các bị cáo thể hiện như sau:

Vào hồi 12h35’ ngày 24/9/2020 tại trước cửa số nhà 463 B, phường C, quận H, Thành phố Hà Nội, Lương Hoàng S đã có hành vi đưa 01 gói ma túy (Theo kết luận giám định là 0,869 gam Methamphetamine) cho Trịnh Tường B. Ngay khi đó cả hai đã bị Công an phát hiện và cả hai cùng bỏ chạy. Sau đó cả hai đã bị Công an bắt giữ cùng gói ma túy trên. B khai mua gói ma túy của S với giá 600.000 đồng để bán lại cho người khác với giá 800.000 đồng thì sẽ trả cho S 600.000 đồng. S khai mua gói ma túy trên với giá 500.000 đồng và bán lại cho B với giá 600.000 đồng.

Như vậy, hành vi của các bị cáo Trịnh Tường B và Lương Hoàng S đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

nh vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước và trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi bán ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do hám lợi nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó hành vi của các bị cáo cần thiết phải bị truy tố và xét xử.

t:

+ Nhân thân bị cáo B đã có 06 tiền sự ngoài thời hiệu; S có 01 tiền án về tội cùng loại đã được xóa án tích.

+ Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

+ Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo khai báo thành khẩn - quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Biện pháp tư pháp:

a.Tịch thu, tiêu hủy: 0,869 gam Methamphetamine và 02 sim điện thoại.

b. Sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu đen thu của bị cáo B và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng thu của bị cáo S, do các bị cáo sử dụng điện thoại vào việc phạm tội.

+ Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378;

Số khung: RLHJF24089Y038938; Số máy: JF24E0044511, Công an thu giữ của bị cáo B. Bị cáo khai mua xe máy vào năm 2008, khi mua xe không có giấy tờ mua bán, xác minh xe máy không có trong cơ sở dữ liệu phương tiện giao thông đường bộ, không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng; số khung và số máy xe nguyên thủy. Quá trình điều tra Công an quận Hoàn Kiếm đã đăng báo chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp. Vì vậy, ra thông báo công khai có thời hạn, nếu không có người nhận thì tịch thu xe máy sung quỹ Nhà nước vì bị cáo B sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội.

c. Trả lại cho bị cáo B: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trịnh Tường B.

Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: TRỊNH TƯỜNG B LƯƠNG HOÀNG S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

3. Hình phạt:

Xử phạt: TRNH TƯỜNG B 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2020.

Xử phạt: LƯƠNG HOÀNG S 32 ( ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2020.

4. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Điều 239 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 228 của Bộ luật dân sự năm 2005;

a.Tịch thu, tiêu hủy:

+ Một phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn H, đối tượng Lương Hoàng S, Trịnh Tường B, cán bộ Phạm Sơn T người chứng kiến Nguyễn Văn C bên trong có một túi nylon kích thước khoảng 3x5cm chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,869 gam (PC 09 Công an Thành phố Hà Nội trích mẫu giám định 0,079gam, còn lại 0,79gam ma túy Methamphetamine).

+ Hai sim điện thoại đã cũ. b. Sung quỹ Nhà nước:

+ Một điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu đen không rõ nguồn gốc, đã cũ. Số IMEL trong máy 355838087687087. Tại thời điểm bàn giao máy không mở được để kiểm tra, chất lượng hiện trạng không rõ, không kiểm tra được IMEL trong máy.

+ Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng không rõ nguồn gốc, đã cũ. Số IMEL trong máy 355396079852375. Tại thời điểm bàn giao máy không mở được để kiểm tra, chất lượng hiện trạng không rõ, không kiểm tra được IMEL trong máy.

+ Chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378: Số khung: RLHJF24089Y038938; Số máy: JF24E0044511:

Trong thời hạn một năm, kể từ ngày Chi cục thi hành án Dân sự quận Hoàn Kiếm ra thông báo công khai mà chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp chiếc xe máy Honda Lead màu bạc biển kiểm soát 30F7 - 8378; số khung: RLHJF24089Y038938; số máy: JF24E0044511, có yêu cầu thì sẽ xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự; hết thời hạn trên mà không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, xe máy sẽ được sung quỹ Nhà nước vì bị cáo B sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội.

c. Trả lại cho bị cáo B: Một thẻ căn cước công dân số 001074024524 mang tên Trịnh Tường B, sinh năm 1974, đã cũ, bị gãy ở một góc gần ảnh.

(Tang vật giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm - theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 27/01/2021).

5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HSST ngày 02/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về