TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP – TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 26/2021/DS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:46/2020/TLST- DS ngày 22 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST – DS ngày 13 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 43/2021/QĐST – DS ngày 02 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng G Địa chỉ: 266-268 Nam kỳ Khởi Nghĩa, Phường Q, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: tổng giám đốc Địa chỉ: 76/18B H, phường J, quận R, thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Ngọc H, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng G, chi nhánh B Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Ông Trần Tiến M, chức vụ:
Chuyên viên quản lý nợ “Có mặt”.
Địa chỉ: khu phố P, phường T, TP. Đ, tỉnh Bình Phước.
- Bị đơn: Ông Lê Văn D, sinh năm 1986 “vắng mặt”. Địa chỉ: Thôn 4, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/5/2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ông Trần Tiến M – người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 05/12/2014, Ngân hàng G và ông Lê Văn D đã ký hợp đồng tín dụng số LD 143390081 ngày 05/12/2014 về việc Ngân hàng G cho ông Lê Văn D vay tổng số tiền 60.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 0,85%, thời hạn vay 48 tháng, thỏa thuận thời hạn trả nợ kỳ cuối vào ngày 05/12/2018. Mục đích ông Lê Văn D vay tiền để tiêu dùng, khi vay không thế chấp tài sản bảo đảm gì.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 30/5/2017 ông Lê Văn D chỉ trả cho Ngân hàng G tổng số tiền gốc và lãi suất là 58.570.000 đồng (trong đó tiền gốc là 43.780.000 đồng, tiền lãi suất là 14.790.000 đồng). Từ kỳ hạn trả nợ ngày 30/6/2017 đến nay ông Lê Văn D chưa trả cho Ngân hàng G thêm số tiền gốc còn lại và tiền lãi phát inh trên nợ gốc. Do ông Lê Văn D vi phạm nghĩa vụ trả nợ, ngày 30/6/2017 nên Ngân hàng G, chi nhánh B đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn. Nay Ngân hàng G yêu cầu ông Lê Văn D trả số tổng số tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 17/6/2021 là 33.385.028 đồng (tiền gốc còn lại 16.220.000 đồng, lãi trong hạn là 9.690.000 đồng, lãi suất quá hạn 7.475.028 đồng).
Ngoài ra Ngân hàng G yêu cầu ông Lê Văn D thanh toán tiền lãi phát sinh trên nợ gốc từ ngày 18/6/2021 cho đến khi thanh toán xong nợ gốc theo mức lãi suất được các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng đã ký kết.
2. Bị đơn ông Lê Văn D: Vắng mặt và không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo mặc dù đã được Tòa án đã thông báo hợp lệ trên phương tiện thông tin đại chúng các văn bản tố tụng Ý kiến Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, tòa án đã tiến hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Về những người tham gia tố tụng: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng. Bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, ngày 22/6/2020 Tòa án thụ lý vụ án đến ngày 18/5/2021 mới có Quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng G. Buộc ông Lê Văn D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng G tổng số tiền gốc còn lại 16.220.000 đồng và lãi suất.
Các vấn đề khác giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” do nguyên đơn Ngân hàng G làm đơn khởi kiện. Bị đơn ông Lê Văn D có hộ khẩu thường trú tại Thôn 4, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.
[2] Đối với bị đơn ông Lê Văn D đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 180 của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng ông Lê Văn D vắng mặt lần hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Tại phiên tòa hôm nay ông Lê Văn D vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lê Văn D là đúng quy định của pháp luật.
[3] Tại phiên tòa nguyên đơn ông Ngân hàng G do ông Trần Tiến M làm đại diện theo ủy quyền vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc ông Lê Văn D trả số tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 17/6/2021 là 33.385.028 đồng (tiền gốc còn lại 16.220.000 đồng, lãi trong hạn là 9.690.000 đồng, lãi suất quá hạn 7.475.028 đồng). Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Đối với yêu cầu trả nợ gốc của nguyên đơn:
Căn cứ hợp đồng tín dụng số LD 143390081 ngày 05/12/2014 được ký kết giữa Ngân hàng G và ông Lê Văn D và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tại phiên tòa, hội đồng xét xử có đủ cơ sơ xác định: Vào ngày 05/12/2014 Ngân hàng G đã cho ông Lê Văn D vay số tiền 60.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 0,85%, thời hạn vay 48 tháng, thỏa thuận thời hạn trả nợ kỳ cuối vào ngày 05/12/2018. Mục đích ông Lê Văn D vay tiền để tiêu dùng, khi vay không thế chấp tài sản bào đảm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 30/5/2017 ông Lê Văn D chỉ mới trả cho Ngân hàng G tổng số tiền gốc và lãi là 58.750.000 đồng (trong đó tiền gốc là 43.780.000 đồng, tiền lãi là 14.790.000 đồng). Từ kỳ trả nợ tiếp theo ngày 30/6/2017 đến nay ông Lê Văn D vẫn chưa trả cho Ngân hàng G số tiền nợ gốc còn lại 16.220.000 đồng theo như thỏa thuận nên đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền nợ gốc theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Do đó, tính đến ngày 17/6/2021, bị đơn ông Lê Văn D còn nợ Ngân hàng G tiền gốc của Hợp đồng tín dụng trên là 16.220.000 đồng. Phía bị đơn là ông Lê Văn D mặc dù không có mặt tại phiên toà nhưng căn cứ vào Hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng G, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu đòi nợ gốc của nguyên đơn, buộc ông Lê Văn D có nghĩa vụ trả số số tiền gốc còn lại 16.220.000 đồng cho theo quy định tại điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015.
[3.2] Đối với yêu cầu tính tiền lãi suất: Xét yêu cầu của nguyên đơn về số tiền lãi bị đơn phải trả theo thỏa thuận tại hợp đồng tín số LD 143390081 ngày 05/12/2014 được ký kết giữa Ngân hàng G và ông Lê Văn D tính đến ngày 17/6/2021 là 17.165.028 đồng (trong đó: tiền lãi trong hạn là 9.690.000 đồng, tiền lãi quá hạn là 7.475.028 đồng) phù hợp với sự thoả thuận giữa các bên trong Hợp đồng tín dụng đã ký kết và các quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.3] Đối với yêu cầu thanh toán tiền lãi phát sinh trên nợ gốc từ ngày 18/6/2021 cho đến khi bị đơn thanh toán xong nợ gốc theo mức lãi suất được các bên thoả thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp với thoả thuận của hai bên và phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là 2.788.000 đồng. Căn cứ Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự nguyên đơn phải chịu, được trừ vào số tiền 2.788.000 đồng mà Ngân hàng G đã nộp tạm ứng. Ngân hàng G đã nộp xong.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí. Mức án phí được quy định như sau: Đối với giá trị tài sản có tranh chấp từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng, mức án phí là 5% giá trị tài sản có tranh chấp.
Do đó, bị đơn phải chịu tiền án phí là: 33.385.028 đồng x 5% = 1.669.251 đồng.
Nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 40, khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 117, 119, 280, 357, 463, 466 Bộ luật dân sự 2015; Căn cứ vào các Điều 90, 91, 95 của Luật các tổ chức tín dụng;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Ngân hàng G.
Buộc bị đơn ông Lê Văn D phải trả cho Ngân hàng G tổng số tiền gốc và lãi tính đến ngày 17/6/2021 là 33.385.028 đồng (Ba mươi ba triệu ba trăm tám mươi lăm nghìn không trăm hai mươi tám đồng), trong đó tiền lãi trong hạn 9.690.000 đồng, tiền lãi quá hạn 7.475.028 đồng.
2. Án phí dân sự có giá ngạch sơ thẩm là 1.669.251 đồng (Một triệu sáu trăm sáu mươi chín nghìn hai trăm năm mươi mốt đồng) ông Lê Văn D phải chịu.
Ngân hàng G được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 757.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0019302 ngày 22/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.
3. Về nghĩa vụ thi hành án:
3.1. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng (hợp đồng tín số LD 143390081 ngày 05/12/2014) cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thoả thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
3.2. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị:
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 26/2021/DS-ST ngày 17/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 26/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về