Bản án 26/2020/HSST ngày 30/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 30/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS, ngày 19/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Ngọc S, sinh ngày 24/03/1995; Tên gọi khác: Ty; Tại tỉnh: Đắk Nông; Nơi đăng ký NKTT và trú tại: thôn 11, xã NB, huyện S, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Ngọc D, sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Vợ bị cáo: Lê Thị L, sinh năm 1994; Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, Tiền sự: Không;

Biện pháp ngăn chặn áp dụng: Bị bắt tạm giữ từ ngày 22/02/2020 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. (Bị cáo có mặt).

*/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Trú tại: thôn 11, xã NB, huyện S, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt)

2. Bà Dương Thị P, sinh năm 1977; Trú tại: thôn 10, xã NB, huyện S, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt)

*/ Người làm chứng: Chị Đặng Thị Thu H, sinh năm 1980; Trú tại: thôn ĐA, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Ngọc S là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 21/02/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Huỳnh Ngọc S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sufat màu đỏ, biển kiểm soát 48F5-7163 (xe của bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ của bị cáo mua lại của bà Dương Thị P) đi từ nhà ở thôn 11, xã NB, huyện S đến địa bàn xã N, huyện S, tỉnh Đắk Nông gặp một người phụ nữ tên U (chưa rõ nhân thân, lý lịch) mua 01 gói ma túy với số tiền 1.000.000 đồng mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Huỳnh Ngọc S để ma túy vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô về lại nhà ở thôn 11, xã NB, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

Khoảng 11 giờ ngày 22/02/2020, Huỳnh Ngọc S lấy áo khoác cùng gói ma túy đang để trong túi áo mặc vào người rồi đón xe buýt đi từ thôn 11, xã NB, huyện S đi đến xã T, huyện M để tìm mua thịt heo rừng. Khi đến xã T, huyện M, Huỳnh Ngọc S đi vào quán cà phê Hương Long thuộc thôn ĐA, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông để uống cà phê thì bị lực lượng Biên phòng cửa khẩu Thuận An thuộc Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh Đắk Nông phát hiện và bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: thu giữ trong túi áo khoác bên trái mà Huỳnh Ngọc S đang mặc trên người 01 gói nilông màu trắng hàn kín, bên trong có chứa những hạt tinh thể màu trắng không đồng nhất nghi là ma túy); 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu sơn đen, loại bàn phím bấm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy M20, màu xanh dương; số tiền 4.960.000 đồng.

Ngày 26/02/2020, Đồn biên phòng cửa khẩu Thuận An ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil để điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định số 28/KLMT-PC09, ngày 24/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nilông màu trắng hàn kín, kích thước 3,2cm x 3,4cm được niêm phong trong bì thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 1,4930 gam là Methamphetamine. Hoàn lại sáu giám định có khối lượng 1,0285 gam.

Tại Bản cáo trạng số 26/CTr – VKS ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk Mil để xét xử bị cáo Huỳnh Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Ngọc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc S mức án từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 của BLTTHS; Áp dụng Điều 47, Điều 48 của BLHS:

+ Đối với 1,0285 gam Methamphetamine hoàn lại ssau giám định là vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu sơn đen, loại bàn phím bấm;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy M20, màu xanh dương; số tiền 4.960.000 đồng bị cáo Huỳnh Ngọc S không sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Tại phiên toà, bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin Tòa án xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Huỳnh Ngọc S nói lời sau cùng, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm sớm trở thành người công dân tốt, sống có ích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Ngọc S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.

[2] Nhận định: Vào lúc 12 giờ 00 phút, ngày 22/02/2020, tại quán cà phê Hương Long thuộc thôn ĐA, xã T, huyện M, tỉnh Đắk Nông, lực lượng Đồn biên phòng cửa khẩu Thuận An thuộc Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh Đắk Nông, đã phát hiện và bắt quả tang Huỳnh Ngọc S đang có hành vi tàng trữ trái phép trong người 1,4930 gam ma túy là chất Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào Tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

….

c) Heroin,Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Trong thời gian gần đây, nổi nên tình trạng tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy một cách nghiêm trọng, đây là một vấn nạn của xã hội chính từ ma túy mà nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội khác, vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời làm gương cho những ai đã và đang có ý định phạm tội, nhằm nhanh chóng loại bỏ loại tội phạm này ra khỏi xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về nhân thân: Ngoài lần phạm tội này thì trước đó bị cáo chưa có vi phạm gì. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Gia đình bị cáo có ông Nội là liệt sỹ chống Mỹ; có bà Nội được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo học tập, lao động cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 48 của BLHS; Căn cứ Điều 106 của BLTTHS:

+ Đối với 1,0285 gam Methamphetamine (còn lại sau giám định) do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu sơn đen, loại bàn phím bấm;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy M20, màu xanh dương; số tiền 4.960.000 đồng bị cáo Huỳnh Ngọc S không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo mới phù hợp.

[6] Trong vụ án này còn có những vấn đề sau:

- Đối với đối tượng tên U là người bán ma túy cho Huỳnh Ngọc S quá trình điều tra Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sufat màu đỏ, biển kiểm soát 48F5-7163 mà Huỳnh Ngọc S sử dụng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là của bà Nguyễn Thị L cho Huỳnh Ngọc S mượn vào ngày 21/02/2020 để đi lại. Việc Huỳnh Ngọc S sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy sử dụng thì bà Nguyễn Thị L không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil không thu giữ, vì vậy không đặt ra vấn đề xử lý.

- Đối với bà Nguyễn Thị L cho bị cáo Huỳnh Ngọc S mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sufat màu đỏ, biển kiểm soát 48F5-7163 để đi lại. Khi bị cáo Huỳnh Ngọc S sử dụng chiếc xe mô tô này vào việc mua ma túy thì bà Nguyễn Thị L không biết do đó không có căn cứ xem xét xử lý đối với bà Nguyễn Thị L.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc S (Ty) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

- Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Ngọc S (Ty) 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 22/02/2020.

2. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 48 của BLHS; Căn cứ Điều 106 của BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy 1,0285 gam Methamphetamine (còn lại sau giám định) do không còn giá trị sử dụng.

+ Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu sơn đen, loại bàn phím bấm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy M20, màu xanh dương; số tiền 4.960.000 đồng cho bị cáo Huỳnh Ngọc S.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của BLTTHS; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Huỳnh Ngọc S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yếu bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HSST ngày 30/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về