Bản án 26/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXHS-ST ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với:

- Bị cáo: Sơn T; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1989; Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: số 612/65/9 đường M, khóm 6, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Giới tính:Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Con ông: Sơn C1, sinh năm 1963 và bà: Thạch T, sinh năm 1956; Anh, chị, em ruột: C 05 người kể cả bị cáo, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1996; Vợ: Nguyễn Thị Hạnh, sinh năm 2001;Con: C 01 người con sinh năm 2019. Tiền sự: 01 lần, Vào ngày 12 tháng 11 năm 2018 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường 9, thành phố Sóc Trăng quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường là 03 tháng đến ngày 16 tháng 02 năm 2019 thì chấp hành xong, đến nay chưa được coi là chưa bị xử lý hành chính. Tiền án: không; Về nhân thân: vào ngày 21 tháng 4 năm 2011 bị Toà án nhân dân thành phố Sóc Trăng, xử phạt 01 năm tù về Tội trộm cắp tài sản, đến ngày 19 tháng 9 năm 2011 thì chấp hành xong án phạt tù; lần thứ hai: vào ngày 29 tháng 8 năm 2012 bị Toà án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 30 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản đến ngày 09 tháng 9 năm 2014 thì chấp hành xong án phạt tù, cả 02 lần đều đã được xoá án tích; Vào ngày 02/01/2020, bị cáo bị kết án tại bản án phúc thẩm số 01/2020/HS-PT, ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Sóc Trăng từ ngày 06 tháng 02 năm 2020 cho đến nay (C mặt);

- Người bị hại: Danh V, sinh năm 1980; Địa chỉ: Số 1025/14 đường X, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt);

- Người làm chứng: Lâm Đ, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 610/46 đường Mạc Đỉnh Chi, khóm 6, phường 9, thành phố S (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ, ngày 01 tháng 12 năm 2019 Sơn T đi soi bắt ếch tại khu vực đường X, khóm 5, phường 9, thành phố Sóc Trăng. Khi đi đến khu vực trước nhà số 1025/14 đường X, khóm 5, phường 9, thành phố Sóc Trăng của ông Danh V thì T phát hiện C nhiều cây mai loại mai bông vàng được trồng theo dọc hai bên lối đi vào nhà của ông V, T quan sát xung quanh thì không thấy C người trông giữ nên nảy sinh ý định nhổ trộm mai đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T nhặt một cây leng ở gần đó rồi đi lại khu vực trồng mai của ông V, T dùng tay và dùng cây leng đã chuẩn bị nhổ ba cây mai loại bông màu vàng của ông V. Nhổ mai xong T lấy dây chuối buộc ba cây mai lại với nhau rồi vác ba cây mai đi về nhà tại số 612/65/9 đường Mạc Đỉnh Chi, khóm 6, phường 9, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng rồi cất giấu khu vực chuồng bò phía sau nhà, trên đường đi T vứt bỏ cây leng xuống kênh. T lấy lưới cước C sẵn trong nhà buộc từng gốc mai lại và để ba cây mai vào trong một cái khênh nhựa màu xanh. Sau đó T mượn xe mô tô 83H4-9451 của Lâm Đ rồi điều khiển xe chở ba cây mai đi đến nhà của Sơn Đình C tại số 542/104 đường Nguyễn Huệ, khóm 4, phường 9, thành phố Sóc Trăng để nhờ C bán mai giùm. Khi T khiêng ba cây mai để xuống khu vực trước nhà của C thì bị lực lượng tuần tra Công an phường 9, thành phố Sóc Trăng phát hiện và mời về làm việc.

Ti bản kết luận định giá tài sản số 04A/KL.ĐGTS, ngày 04 tháng 01 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng kết luận: 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 190cm, đường kính 07cm, C giá 1.200.000 đồng; 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 120cm, đường kính 06cm, C giá 2.000.000 đồng; 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 120cm, đường kính 10cm, C giá 2.000.000 đồng, tổng tài sản chiếm đoạt C giá 5.200.000 đồng Tại bản Cáo trạng số 30/CT-VKS.TPST ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Sơn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bố bị cáo Sơn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm h, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, tổng hợp hình phạt từ 01 năm tù tại Bản án hình sự 01/2020/HS-PT, ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, buộc bị cáo phải chấp hành chung từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không C yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) cái khênh nhựa màu xanh dương Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không C người nào C ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với việc vắng mặt người bị hại, người C quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã C lời khai làm rõ trong hồ sơ vụ án, không trở ngại đến việc bồi thường thiệt hại, tính quyết định hình phạt. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với người này.

[3].Tại phiên tòa bị cáo Sơn T khai nhận: Vào khoảng 02 giờ, ngày 01 tháng 12 năm 2019, bị cáo đi ngang nhà số 1025/14 đường X, khóm 5, phường 9, thành phố Sóc Trăng của ông Danh V, bị cáo đã lén lút nhổ 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 190cm, đường kính 07cm, C giá 1.200.000 đồng; 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 120cm, đường kính 06cm, C giá 2.000.000 đồng; 01 (một) cây mai bông màu vàng, chiều cao 120cm, đường kính 10cm, C giá 2.000.000 đồng, tổng tài sản bị cáo chiếm đoạt C giá 5.200.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác C trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định bị cáo lén lút chiếm đoạt của người bị hại tổng cộng 5.200.000 đồng. Nên Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Sơn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là C căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Bị cáo không C tình tiết tăng nặng: Xét về nhân thân bị cáo C 01 tiền sự chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính; 02 tiền án đã được xóa án tích. Xét các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; Tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại nên gây thiệt hại không lớn; bị cáo là người dân tộc Khmer. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h,s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Trước khi phạm tội lần này, bị cáo bị kết án về tội trộm cắp tài sản 01 năm tù tại Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2020/HS-PT, ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không C yêu cầu bị cáo bồi thường. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Xử lý vật chứng: Đi với vật chứng là phương tiện phạm tội cần tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) cái khênh nhựa màu xanh dương.

[8]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ, về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[9].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38; Khoản 2 Điều 56; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.Tuyên bố: Bị cáo Sơn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2. Xử phạt bị cáo Sơn T 02 (hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 01 năm tù tại tại Bản án hình sự phúc thẩm số 01/2020/HS-PT, ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai bản án là 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06 tháng 02 năm 2020.

3.Trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) cái khênh nhựa màu xanh dương 5. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại, người C quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về