Bản án 26/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 08 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Hồ Thanh T, sinh năm 1993, tại Lâm Đồng; nơi cư trú: tổ dân phố 12, thị trấn Cát Tiên, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ R và bà Lê Thị H; có vợ Nguyễn Thị N và 1 người con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/01/2020 đến nay, “có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Đình Th, sinh năm 1965:

Trú tại: thôn 6, xã Đa Kia, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Thông qua mạng xã hội facebook, Hồ Thanh T quen biết đối tượng T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Qua đó, T1 biết T là phụ xe ô tô chở khách (lơ xe) tuyến từ thị trấn Cát Tiên, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng đến Thành phố Hồ Chí Minh, nên T1 liên lạc, thỏa thuận với T vận chuyển pháo từ xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước về thị trấn Cát Tiên, T1 sẽ trả tiền công thì T đồng ý. Khoảng 06 giờ ngày 10/01/2020, T1 gọi điện cho T và nói T đến khu vực xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập để nhận pháo rồi vận chuyển về thị trấn Cát tiên giao cho đối tượng tên Quân (chưa rõ nhân thân, lai lịch) thì T đồng ý. Theo sự chỉ dẫn của T1, T đi từ thị trấn Cát Tiên đến xã Phú Nghĩa gặp T1 để nhận pháo. Khi T đi đến thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước thì thuê Nguyễn Đình Th dùng xe mô tô biển kiểm soát 93H1-266.91 chở vào xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập (xe ôm). Tại đây, T1 đưa cho T 01 thùng giấy cattong, bên trong chứa 08 hộp pháo; số tiền công 200.000 đồng, đồng thời T1 nói khi vận chuyển pháo về thị trấn Cát Tiên, Quân sẽ đưa thêm tiền công. Sau đó, T đặt thùng pháo và ngồi lên xe để Thi chở quay lại thị xã Phước Long để về thị trấn Cát Tiên. Khi Thi chở T đến thôn Khắc Khoan, xã Phú Nghĩa thì bị Công an huyện Bù Gia Mập phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật gồm:

01 Điện thoại di động hiệu Oppo CE 1700.

08 Khối hình hộp chữ nhật, bên trong mỗi khối có 36 ống giấy kết dính lại với nhau thành dàn, tổng trọng lượng 9,6kg.

01 Thùng cattong và 01 bao nilong màu đen.

Tại bản kết luận giám định số 912 ngày 13/01/2020 của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 08 khối hình hộp chữ nhật (kích thước 14cm x 14cm x 10cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn) đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, bên trong có chứa thành phần thuốc pháo, khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 9,6kg.

Bản Cáo trạng số 21/CT-VKSBGM ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Hồ Thanh T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hồ Thanh T như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 191, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Hồ Thanh T 03 tháng 28 ngày tù bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam.

Và đề nghị xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 9,6 kg pháo nổ và 01 thùng giấy cattong và bao nylon màu đen; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO CEI7000; truy thu số tiền 200.000 đồng do bị cáo T phạm tội mà có.

 Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng trình bày:

- Bị cáo Hồ Thanh T khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 10/01/2020, T đã có hành vi vận chuyển 9,6kg pháo nổ, nay bị cáo đã ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Xét thấy các chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận định của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh; biên bản niêm phong vật chứng; lời khai của người chứng kiến phù hợp về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, vật chứng của vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Nhằm mục đích kiếm tiền tiêu xài, nên khoảng 12 giờ ngày 10/01/2020, Hồ Thanh T đã vận chuyển 9,6kg pháo nổ cho đối tượng T1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) từ xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước về thị trấn Cát Tiên, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng để lấy tiền công. Khi T đang vận chuyển pháo đến xã Phú Nghĩa, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước thì bị bắt quả tang.

Đối chiếu hành vi nêu trên của bị cáo Hồ Thanh T so với những quy định của pháp luật thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là xâm phạm trật tự quản lý việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm của Nhà nước. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do mục đích kiếm tiền để tiêu xài cá nhân nên bị cáo đã cố ý trực tiếp thực hiện việc phạm tội. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm nên cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi và hậu  quả do bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là lao động chính trong gia đình và đang nuôi con nhỏ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Bị cáo là người có nhân thân tốt: chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Xét về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 triệu đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nông, không có thu nhập ổn định, đang ở cùng gia đình và nuôi con nhỏ, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo T 03 tháng 28 ngày tù, bằng thời hạn tạm giữ, tạm giam cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đại điện Viện kiểm sát đề nghị xử lý tang vật và không áp dụng hình phạt bổ sung là phù hợp với quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đối với Nguyễn Đình Thi là người chở Hồ Thanh T và số pháo trên về thị xã Phước Long. Tuy nhiên Thi chỉ là người chở khách thuê, không biết T vận chuyển pháo nổ, nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với đối tượng T1 và đối tượng tên Quân hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập tách ra để tiếp tục xác minh xử lý sau.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 06 khối hình hộp chữ nhật, kích thước 14cm x 14cm x 10cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn hoàn lại sau giám định là vật chứng của vụ án, nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với thùng giấy cattong và bao nylon màu đen là vật chứng vụ án, xét thấy không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với điện thoại di động hiệu OPPO CEI700 là phương tiện mà bị can Hồ Thanh T sử dụng để liên lạc vận chuyển pháo, nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 200.000 đồng là tiền do bị cáo thu lợi bất chính từ việc phạm tội vận chuyển pháo, bị cáo đã sử dụng để trả tiền cho người xe ôm nên cần truy thu nộp ngân sách nhà nước.

[9] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ Điều 260, Điều 331, Điều 328, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Thanh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”

2. Xử phạt bị cáo Hồ Thanh T 03 (Ba) tháng 28 (Hai mươi tám) ngày tù, đến ngày xét xử sơ thẩm bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, trả tự do cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ về tội khác.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 - Tuyên tịch thu tiêu hủy 06 khối hình hộp chữ nhật, kích thước 14cm x 14cm x 10cm, bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có chứa 36 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 thùng giấy cattong và 01 bao nylon màu đen.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO CE 1700, màu xám, IMEL 1: 13472.

- Tuyên truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng do bị cáo T thu lợi bất chính từ việc phạm tội.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày  kể từ tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về