Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG- TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 26/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2020, về việc“Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐST – HNGĐ, ngày 13 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị T, sinh năm: 1986.

Đa chỉ: Ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Lê Minh H, sinh năm: 1980.

Đa chỉ: Ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Chị T có mặt tại phiên tòa. Anh H vắng mặt và có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện nguyên đơn chị Huỳnh Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh H chung sống với nhau từ năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P vào ngày 30/9/2015. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu cũng rất hạnh phúc, tuy nhiên sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau và vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2019 đến nay.

Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị T và anh H có 01 người con chung là Lê Tiểu L (sinh ngày 18/9/2003). Hiện nay, cháu L đang sống chung với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không có.

Về nợ chung: không có.

- Bị đơn anh Lê Minh H vắng mặt tại phiên tòa.

Theo đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt anh H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến nhƣ sau:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đều chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến, kiến nghị gì về phần tố tụng.

Về ý kiến giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Trong quá trình thu thập chứng cứ: Ngoài các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp thì trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của đương sự, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Xét việc chị T khởi kiện xin ly hôn là vụ án dân sự và bị đơn anh H thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì cư trú tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án nhân dân huyện Tam Nông giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Bị đơn anh Lê Minh H vắng mặt và có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt nên xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị T xin ly hôn với anh H và yêu cầu được nuôi con chung, tài sản chung không có, nợ chung không có nên xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về nội dung: Chị T, anh H chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 30/9/2015. Do đó hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp.

Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu cũng rất hạnh phúc tuy nhiên sau đó phát sinh mâu thuẫn thường xuyên cãi nhau và vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 02/2019 đến nay vẫn không tự hàn gắn lại được. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã nhiều lần động viên nhưng chị T vẫn cương quyết xin ly hôn với anh H. Mặt khác, theo đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt, anh H cũng không có mong muốn hàn gắn tình cảm với chị T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Từ đó, xét thấy hôn nhân của vợ chồng anh chị ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị T là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về con chung: Trong quá trình chung sống, chị T và anh H có một con chung là Lê Tiểu L (sinh ngày 18/9/2003). Hiện nay, cháu L đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh H không có văn bản trình bày ý kiến là yêu cầu được nuôi con. Xét thấy từ khi anh chị ly thân đến nay, cháu L sống với chị T, nguyện vọng của cháu L là được sống chung với chị T. Mặt khác, anh H không có mặt tại phiên tòa để cung cấp các chứng cứ chứng minh cho việc giao cháu L cho anh nuôi dưỡng là tốt nhất cho cháu. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống, quyền lợi mọi mặt của cháu L, căn cứ vào Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu L cho chị T nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu nên anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[7] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Tóm lại, từ những nhận định trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, chị Huỳnh Thị T được ly hôn với anh Lê Minh H.

2/ Về con chung: Giao cháu Lê Tiểu Long cho chị Huỳnh Thị T được tiếp tục nuôi dưỡng. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị T không yêu cầu). Anh H được quyền đến thăm nom và chăm sóc cháu Long, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con khi có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên đương sự, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.

3/ Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4/ Về án phí:

Chị Huỳnh Thị T phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai số BI/2019/0002744 quyển số 0055 ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Lê Minh H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về